Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thiên hà”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
clean up |
n replaced: → (4) using AWB |
||
Dòng 155:
[[Tập tin:M51Sketch.jpg|thumb|right|Phác họa [[thiên hà Xoáy Nước|Messier 51]] của Huân tước Rosse năm 1845, sau này gọi là Thiên hà Xoáy Nước.]]
Năm 1917, [[Heber Curtis]] thực hiện quan sát sao mới [[S Andromedae]] bên trong "Đại Tinh vân Andromeda" (ngày nay là thiên hà Tiên nữ, hay M31). Khi lục lại các ảnh chụp tinh vân này, ông tìm thấy thêm 11 [[sao mới]] khác. Curtis nhận thấy rằng trên trung bình những sao mới này mờ hơn 10 [[cấp sao|lần]] so với những sao mới nằm trong thiên hà của chúng ta. Từ đây ông có
{{chú thích tạp chí
|last=Curtis |first1=H. D.
Dòng 384:
}}
[[Thiên hà dị thường]] là những thiên hà có cấu trúc bất thường do tương tác thủy triều với những thiên hà khác. Chẳng hạn như
{{chú thích tạp chí
|last1=Gerber |first1=R. A.
Dòng 583:
|doi=10.1038/443151a
|pmid=16971933
|bibcode = 2006Natur.443..151M }}</ref> Trong khi một số nhà khoa học đề cập rằng những thiên thể khác (như [[thiên hà Abell 1835 IR1916]]) có dịch chuyển đỏ cao hơn (và do vậy xuất hiện vào giai đoạn sớm hơn), tuổi của IOK-1 và các thành phần trong nó đã được nghiên cứu kỹ lưỡng.
|họ 1 =
|tên 1 =
Dòng 772:
==Cấu trúc quy mô lớn==
Các cuộc thăm dò vũ trụ sâu thẳm đã cho thấy các thiên hà thường phân bố ở những khoảng cách tương đối gần các thiên hà khác. Tương đối hiếm có các thiên hà đơn độc ít tương tác đáng kể với một thiên hà có khối lượng tương đương trong
{{Chú thích web
|họ 1=McKee |tên 1=M.
|