Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mặt trận Đông Nam Bộ năm 1972”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Giai đoạn III: Chốt chặn đường 13, lập thế da báo: chính tả, replaced: ưong → ương using AWB
n replaced: → (4) using AWB
Dòng 18:
8 giờ sáng 4 tháng 4, Trung đoàn 2 (QGP tỉnh Phước Long) tấn công Chi khu quân sự Phước Bình. Sau 6 giờ chống cự, Chi khu quân sự Phước Bình bị QGP tràn ngập. Xét thấy tiền đồn này bị cô lập, không có khả năng chi viện cho các hướng khác và QLVNCH đang phải đối phó với chủ lực [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] tại hướng Tây Ninh, Lộc Ninh, tướng [[Nguyễn Văn Minh]] không điều quân cứu Phước Bình.
 
5h 00 ngày 5/4, hướng tấn công chính của [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] nổ súng. Các đơn vị của sư đoàn 5 (Công trường 5) không đánh công kiên từ ngoài vào mà bỏ qua các lớp phòng thủ ven Lộc Ninh đánh thẳng vào trung tâm chi khu quân sự. Cùng giờ G, Sư đoàn 9 [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] điều các trung đoàn 1 và 2 của mình cắt đứt đường 13 ở đoạn Lộc Hưng và Thanh Khương, chiếm cầu Cần Lê, cô lập hoàn toàn cụm cứ điểm Lộc Ninh với An Lộc (Bình Long). Đại tá Nguyễn Công Vĩnh, tư lệnh Chiến đoàn 9 điều 2 tiểu đoàn bộ binh và thiết giáp 1 đang phòng ngự căn cứ Hoa Lư (tiền đồn ở Bắc Lộc Ninh) về ứng cứu như bị rơi vào đúng trận địa phục kích của sư đoàn 5. Bộ tư lệnh B2 tăng cường cho hướng này trung đoàn pháo hỗn hợp 40 (gồm pháo, cối và [[cachiusa (vũ khí)|hỏa tiễn H12]]), 2 đại đội xe tăng hốn hợp (PT-76 và T-54). Sư đoàn 5 tiếp tục công kích, bắn cháy bắn hỏng 18 xe tăng, 31 xe [[M-113]] và 8 [[máy bay trực thăng]] [[Bell UH-1 Iroquois|UH-1]] của QLVNCH. Ngày 7/4, Chi khu quân sự Lộc Ninh bị tràn ngập. Chiến đoàn 9 QLVNCH bị thiệt hại nặng và tan rã, đại tá Nguyễn Công Vĩnh và trung tá Nguyễn Đức Dương, chỉ huy thiết đoàn 1 đầu hàng. Hơn 100 xe thiết giáp chỉ còn hơn 30 chiếc thoát được về An Lộc<ref name="su5">Lịch sử sư đoàn 5 bộ binh miền Đông (1966-2005). Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Hà Nội. 2005</ref>
 
Ngày 8 tháng 4, Chiến đoàn 52 QLVNCH từ Bắc An Lộc định lên cứu viện cho Lộc Ninh nhưng đã bị 2 trung đoàn của F9 phản đột kích vào hai bên sườn, buộc phải rút về Cầu Cần Lê sau khi bị tổn thất 2 đại đội. Tiếp theo Lộc Ninh, chuỗi tiền đồn của QLVNCH tại các tỉnh Phước Long, Bình Long và Tây Ninh như Bố Đức, Ka Tum, Tống Lê Chân... phải "di tản chiến thuật"<ref name="hodinh">Hồ Đình. An Lộc - Địa ngục trần gian của quân dân miền Nam</ref>. Trong cuộc hỏi cung ngay sau trận đánh, trung tá Nguyễn Đức Dương thừa nhận cả ông ta và đại tá Vĩnh đều coi hướng Bắc là hướng đột kích chủ yếu của [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] nên để hai bên suờn bị yếu dẫn đến thất bại.<ref name="hoangcam"/>
Dòng 53:
Ở hướng đường 13, QLVNCH dùng trực thăng đổ Trung đoàn 15 (sư đoàn 9) và trung đoàn 33 (sư đoàn 21) xuống Đức Vinh, trung đoàn 32 (sư đoàn 21) lấn lên xóm Ruộng, trung đoàn 9 thiết giáp phối hợp với công binh vượt suối đánh vu hồi, vây bọc cụm chốt Tàu Ô từ phía Bắc với ý định nhổ cụm chốt Tàu Ô của sư đoàn 7 [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]]. Bộ tư lệnh F7 (sư đoàn trưởng [[Bùi Thanh Vân]]) đã sửa đổi chiến thuật, không áp dụng "chốt cứng, chặn đứng" như trước mà kết hợp các loại "chốt chặn", "chốt cơ động" với các cuộc vận động phản đột kích và ra tay tấn công trước. Ngày 17 tháng 5, sư đoàn 9 [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] dùng trung đoàn 165 phối hợp với trung đoàn 1 (sư đoàn 9) tấn công cụm quân của trung đoàn các 15, 33 ở Đức Vinh; điều trung đoàn 209 thay trung đoàn 141 (thiếu) vây cụm quân Tân Khai của QLVNCH.
 
Ngày 19 tháng 5, lợi dụng thời gian các đơn vị chủ lực của sư đoàn 7 [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] thay quân, tướng Nguyễn Văn Minh lệnh cho Chiến đoàn 31 (thiếu) và tiểu đoàn biệt động biên phòng đánh ép cụm chốt Tàu Ô từ phía Bắc, Chiến đoàn 32 điều các tiểu đoàn 1 và 2 phối hợp chi đoàn 1 Trung đoàn 5 thiết giáp đánh bọc hai bên đường 13 chiếm được cống Ông Tề nhưng không tiến được đến cống Tàu Ô. Đêm 19 tháng 5, trung đoàn 165 [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] chặn được chiến đoàn 32 ở Xa Cát. Đến đêm 25 tháng 4, đến lượt cụm thiết giáp của chi đoàn 1 bị trung đoàn 1 (sư đoàn 9) vây lấn. Hai tiểu đoàn của Chiến đoàn 32 ở Cống Ông Tề bị cô lập. Ngày 28 tháng 5, tướng Minh ra lệnh rút các đơn vị QLVNCH quanh Tàu Ô - Xóm Ruộng về phía sau. [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] vẫn chiếm được nhiều địa đoạn quan trọng vây quanh An Lộc, đặc biệt là hai điểm cao 169 và Đồi Gió, được dùng là trận địa pháo kích An Lộc từ nhiều phía, gây thương vong lớn cho sư đoàn 5 QLVNCH.<ref name="hodinh"/>
 
Trong tháng 5,[[Không quân Hoa Kỳ|Không lực Hoa Kỳ]] và không quân QLVNCH đã dùng 10 lần chiếc B-52, 7.500 phi vụ máy bay cường kích ném 39.500 tấn bom xuống các vị trí của [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] ở quanh An Lộc, đặc biệt tập trung ở cụm chốt Tàu Ô - Xóm Ruộng.
Dòng 80:
Lực lượng QLVNCH ở 5 tỉnh Mỹ Tho, Kiến Tường, Kiến Phong, Gò Công, Bến Tre có 7 trung đoàn bộ binh và một số đơn vị thiết giáp, pháo tăng cường. Tuy nhiên, đây là địa bàn của Quân đoàn IV QLVNCH. Các lực lượng của sư đoàn 7, sư đoàn 9 đóng tại Mỹ Tho và Cần Thơ có thể phản ứng bất cứ lúc nào. Sư đoàn 4 không quân và Giang đoàn Cửu Long (QLVNCH) cũng có các căn cứ chính tại Cần Thơ và Mỹ Tho.
 
Đêm 9 rạng ngày 10 tháng 6, các trung đoàn 174 và Q765 tấn công tiểu khu quân sự Long Khốt và pháo kích chi khu quân sự Măng Đa của QLVNCH bên bờ Đông sông Vàm Cỏ Tây thuộc địa bàn tỉnh Kiến Phong. Thám báo của tiểu khu Long Khốt phát hiện được [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam|Quân Giải phóng m]] tiếp cận và gọi pháo binh từ Măng Đa tập kích và không đoàn 4 chi viện, xóa sổ đại đội 1, tiểu đoàn 6 và làm tổn thất một phần E174 của F5 QĐNDVN. Tư lệnh sư đoàn Bùi Thanh Vân phải ra lệnh rút trung đoàn ra củng cố lại. Sáng 11 tháng 6, sư đoàn tiếp tục tấn công Long Khốt lần 2. Chỉ huy chi khu Măng Đa QLVNCH điều 4 đại đội thám báo và 1 chi đoàn thiết giáp tập kích vào sau lưng. Ngày 14 tháng 6, [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] phải lui quân, không chiếm được Long Khốt.<ref name="su5"/>
 
Đầu tháng 7, các trung đoàn 6 và Q765 vẫn còn phải mở hành lang dọc theo kênh Nguyễn Văn Tiếp và 62 để tiếp cận Kiến Tường, Mỹ Tho. Tư lệnh Bùi Thanh Vân ra lệnh để lại tất cả các trang bị nặng tại hậu cứ sư đoàn ở Chi Phú, chuyển thành khinh binh cho phù hợp với vận động chiến. Ngày 22 tháng 7, Tư lệnh quân đoàn 4, tướng Ngyễn Khoa Nam điều động sư đoàn 7 phối hợp với 1 sư đoàn quân Lon Nol định hợp vây chủ lực F5 [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] ở Kongpong Tabek trên đất Campuchia, nhưng thất bại. Ngày 1 tháng 8, 2 trung đoàn chủ lực F5 bất ngờ đánh chiếm các đồn Thầy Yến, Phật Đá, kênh Nguyễn Văn Tiếp và khu trù mật Thiên Hộ. Đồng thời sư đoàn này kéo về E174 tiêu diệt lữ đoàn 66 của quân Lon Nol ở phum Krang Swai, phá vỡ kế hoạch hợp vây của QLVNCH và quân Lon Nol. Đến cuối tháng 8, 2 trung đoàn của F5 đã đứng chân được ở Cái Bè, đánh chiếm 16 đồn bốt dọc kênh La Răng và đường 22, phát triển theo trục quốc lộ 4.