Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lý thuyết tập hợp”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎20. Jahrhundert: chính tả, replaced: bổ xung → bổ sung using AWB
n replaced: → (14) using AWB
Dòng 24:
{{cquote|Qua một "tập hợp", chúng ta hiểu là bất kỳ một tổng hợp M của một số vật thể m khác nhau được xác định rõ ràng trong quan điểm hoặc suy nghĩ của chúng ta (được gọi là "các phần tử" của M) thành một tổng thể.|Georg Cantor<ref>Georg Cantor: ''Beiträge zur Begründung der transfiniten Mengenlehre.'' In: ''[[Mathematische Annalen]]'' 46 (1895), S. 481. [http://gdz.sub.uni-goettingen.de/dms/load/img/?PPN=PPN237853094&DMDID=DMDLOG_0069&LOGID=LOG_0069&PHYSID=PHYS_0295 Online-Version]. Siehe [[:Datei:Textstelle mit der Mengendefinition von Georg Cantor.png|Textstelle mit der Mengendefinition von Georg Cantor.png]] für Bild der entsprechenden Textstelle.</ref>}}
 
Cantor phân loại các tập hợp, đặc biệt là những tập hợp vô hạn, theo [[Lực lượng (tập hợp)|Lực lượng]] của chúng. Đối với tập hợp hữu hạn, đây là số lượng các phần tử của chúng. Ông gọi hai tập hợp " có lực lượng bằng nhau" khi chúng được ánh xạ [[song ánh]] với nhau, tức là khi có một mối quan hệ một-một giữa các phần tử của chúng. Cái được định nghĩa là sự đồng nhất lực lượng là một [[Tập hợp tương đương|quan hệ tương đương]], và một lực lượng hay số phần tử của một tập hợp M theo Cantor, là lớp tương đương của các tập hợp có lực lượng bằng M. Ông là người đầu tiên quan sát thấy rằng có những lực lựong vô hạn khác nhau. Tập hợp các số tự nhiên, và tất cả các tập hợp có lực lượng bằng nó, được Cantor gọi là '''[[Tập hợp đếm được]]'', tất cả các tập hợp vô hạn khác được gọi là ''[[tập hợp không đếm được]]''.
 
; Các kết quả quan trọng từ Cantor:
Dòng 35:
Cantor gọi '' [[Giả thiết continuum]] '' là "có một lực lượng ở giữa tập hợp các số tự nhiên và tập hợp các số thực " Ông đã cố gắng để giải quyết, nhưng không thành công. Sau đó nó bật ra rằng vấn đề này trên nguyên tắc không quyết định được.
 
Ngoài Cantor, [[Richard Dedekind]] là một nhà tiên phong quan trọng của lý thuyết về lý thuyết tập hợp. Ông đã nói về các "hệ thống" thay vì tập hợp và phát triển một cấu trúc lý thuyết tập hợp của các con số thực vào năm 1872<ref>Richard Dedekind: ''[http://gdz.sub.uni-goettingen.de/dms/load/img/?PPN=PPN23569441X&DMDID=DMDLOG_0047 Stetigkeit und irrationale Zahlen.]'' Braunschweig 1872.</ref>, một số lượng lý thuyết xây dựng số thực [2] và 1888 nói về tiên đề hóa lý thuyết tập hợp các con số tự nhiên.<ref>Richard Dedekind: ''[http://gdz.sub.uni-goettingen.de/dms/load/img/?PPN=PPN23569441X&DMDID=DMDLOG_0055 Was sind und was sollen die Zahlen?]'' Braunschweig 1888.</ref> Ông là người đầu tiên tạo ra công thức tiên đề Axiom of extensionality của lý thuyết tập hợp.
 
Ngay từ năm 1889, Giuseppe Peano, người đã miêu tả tập hợp là các tầng lớp, đã tạo ra cách tính toán bằng công thức logic các tầng lớp đầu tiên làm cơ sở cho số học của ông với các tiên đề Peano, mà ông đã mô tả lần đầu tiên trong một ngôn ngữ lý thuyết tập hợp chính xác. Do đó ông đã phát triển cơ sở cho ngông ngữ công thức ngày nay của lý thuyết tập hợp và giới thiệu nhiều biểu tượng được phổ biến ngày nay, đặc biệt là ký hiệu phần tử <math>\in</math>, được đọc là là "phần tử của"<ref>Giuseppe Peano: ''Arithmetices Principia nova methodo exposita.'' Turin 1889.</ref>. Trong khi đó <math>\in</math> là chữ viết thường của ε (epsilon) của từ ἐστί (tiếng Hy Lạp: "là").<ref>[[Ingmar Lehmann]], Wolfgang Schulz: „Mengen – Relationen – Funktionen“ (3.Auflage, 2007), ISBN 978-3-8351-0162-3.</ref>
Dòng 48:
Năm 1903/1908 [[Bertrand Russell]] phát triển [[Type theory]] của mình, trong đó tập hợp luôn luôn có một kiểu cao hơn các phần tử của chúng, do đó sự hình thành các tập hợp có vấn đề sẽ không thể xảy ra. Ông chỉ ra cách đầu tiên ra khỏi những mâu thuẫn và cho thấy trong "Principia Mathematica" của 1910-1913 cũng là một phần hiệu quả của Type theory ứng dụng. Cuối cùng, tuy nhiên, nó chứng tỏ là không thích hợp với lý thuyết tập hợp của Cantor và cũng không thể vượt qua được sự phức tạp của nó.
 
Tiên đề lý thuyết tập hợp được phát triển bởi [[Ernst Zermelo]] vào năm 1907 ngược lại dễ sử dụng và thành công hơn, trong đó schema of replacement của ông là cần thiết để bổ sung vào. Zermelo thêm nó vào hệ thống Zermelo-Fraenkel năm 1930, mà ông gọi tắt là hệ thống-ZF. Ông đã thiết kế nó cho Urelement mà không phải là tập hợp, nhưng có thể là phần tử của tập hợp và được xem như cái Cantor gọi là "đối tượng của quan điểm của chúng tôi." Lý thuyết tập hợp Zermelo-Fraenkel, tuy nhiên, theo ý tưởng Fraenkel là lý thuyết tập hợp thuần túy mà đối tượng hoàn toàn là các tập hợp.
 
Tuy nhiên, nhiều nhà toán học thay vì theo một tiên đề hợp lý lại chọn một lý thuyết tập hợp thực dụng, tránh tập hợp có vấn đề, chẳng hạn như những áp dụng của [[Felix Hausdorff]] 1914 hoặc [[Erich Kamke]] từ năm 1928. Dần dần các nhà toán học ý thức hơn rằng lý thuyết tập hợp là một cơ bản không thể thiếu cho cấu trúc toán học. Hệ thống ZF chứng minh được trong thực hành, vì vậy ngày nay nó được đa số các nhà toán học công nhận là cơ sở của toán học hiện đại; không còn có mâu thuẫn có thể bắt nguồn từ hệ thống ZF. Tuy nhiên, sự không mâu thuẫn chỉ có thể được chứng minh cho lý thuyết tập hợp với tập hợp hữu hạn, chứ không phải cho toàn bộ hệ thống ZF, mà chứa lý thuyết tập hợp của Cantor với tập hợp vô hạn. Theo Gödel's incompleteness theorems năm 1931 một chứng minh về tính nhất quán về nguyên tắc là không thể được. Những khám phá Gödel chỉ là [[chương trình của Hilbert]] để cung cấp toán học và lý thuyết tập hợp vào một cơ sở tiên đề không mâu thuẫn được chứng minh, một giới hạn, nhưng không cản trở sự thành công của lý thuyết trong bất kỳ cách nào, vì vậy mà một [[khủng hoảng nền tảng của toán học]], mà những người ủng hộ của [[Intuitionismus]], trong thực tế không được cảm thấy.
Dòng 54:
Tuy nhiên, sự công nhận cuối cùng của lý thuyết tập hợp ZF trong thực tế trì hoãn trong một thời gian dài. Nhóm toán học với bút danh Nicolas Bourbaki đã đóng góp đáng kể cho sự công nhận này; họ muốn mô tả mới toán học đồng nhất dựa trên lý thuyết tập hợp và biến đổi nó vào năm 1939 tại các lãnh vực toán học chính thành công. Trong những năm 1960, nó trở nên phổ biến rộng rãi rằng, lý thuyết tập hợp ZF thích hợp là cơ sở cho toán học. Đã có một khoảng thời gian tạm thời trong đó lý thuyết số lượng đã được dạy ở tiểu học.
 
Song song với câu chuyện thành công của thuyết tập hợp, tuy nhiên, việc thảo luận về các tiên đề tập hợp vẫn còn lưu hành trong thế giới chuyên nghiệp. Nó cũng hình thành những lý thuyết tập hợp tiên đề thay thế khoảng năm 1937 mà không hướng theo Cantor và Zermelo-Fraenkel, nhưng dựa trên Lý thuyết kiểu (Type Theory) của Willard Van Orman Quine từ New Foundations (NF) của ông ta, năm 1940 lý thuyết tập hợp Neumann-Bernays-Godel, mà khái quát hóa ZF về các lớp (Class (set theory)), hay năm 1955, lý thuyết tập hợp Ackermann, khai triển mới định nghĩa tập hợp của Cantor.
 
==Khái niệm và ký hiệu cơ bản==
Lý thuyết tập hợp bắt đầu với một quan hệ nhị phân cơ bản giữa một phần tử o và một tập hợp A. Nếu o là một thành viên (hoặc phần tử) của A, ký hiệu o ∈ A được sử dụng. Khi đó ta cũng nói rằng phần tử a thuộc tập hợp A. Vì các tập cũng là các đối tượng, quan hệ phần tử cũng có thể liên quan đến các tập.
 
=== Quan hệ giữa các tập hợp ===
==== Quan hệ bao hàm ====
Nếu tất cả các thành viên của tập {{math | '' A ''}} cũng là thành viên của tập {{math | '' B ''}}, thì {{math | '' A ''}} là một '' [[Tập hợp con]] của {{math | '' B ''}}, được biểu thị <math>A \subseteq B</math>, và tập hợp B bao hàm tập hợp A. Ví dụ, {{math | {1, 2}}} là một tập hợp con của {{math | {1, 2, 3}}}, và {{math | {2}}} cũng vậy, nhưng {{math | { 1, 4}}} thì không.
 
==== Quan hệ bằng nhau ====
Dòng 68:
Theo định nghĩa, mọi tập hợp đều là tập con của chính nó; tập rỗng là tập con của mọi tập hợp. Mọi tập hợp A không rỗng có ít nhất hai tập con là rỗng và chính nó. Chúng được gọi là các '''tập con tầm thường''' của tập A. Nếu tập con B của A khác với chính A, nghĩa là có ít nhất một phần tử của A không thuộc B thì B được gọi là '''tập con thực sự''' hay '''tập con chân chính''' của tập A.
 
Chú ý rằng 1 và 2 và 3 là các thành viên của tập {{math | {1, 2, 3}}}, nhưng không phải là tập con, và các tập con, chẳng hạn như {1}, không phải là thành viên của tập {1, 2, 3}.
 
===Các phép toán trên các tập hợp===
Dòng 93:
{{wikibooks-en|Discrete mathematics/Set theory}}
 
*[[Matthew Foreman|Foreman, M.]], [[Akihiro Kanamori]], eds. ''[http://handbook.assafrinot.com/ Handbook of Set Theory.]'' 3 vols., to appear in December 2009. Each chapter surveys some aspect of contemporary research in set theory. Does not cover established elementary set theory, on which see Devlin (1993).
 
== Đọc thêm ==