Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hoàng đế”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Ngomanh123 (thảo luận | đóng góp)
n →‎Triều Tiên: replaced: → using AWB
Dòng 256:
Các nhà cai trị của [[Cao Câu Ly]] (37 TCN-[[668]] CN) sử dụng tước hiệu ''[[Đại vương]]'' (태왕, 太王) ''T'aewang''). Ngoài ra một số nhà cai trị của [[Tân La]] (57 TCN-[[935]] CN) bao gồm [[Pháp Hưng vương của Tân La|Pháp Hưng vương]] và [[Chân Hưng vương của Tân La|Chân Hưng vương]] cũng sử dụng tước hiệu này nhằm khẳng định sự độc lập của mình khỏi ảnh hưởng của Cao Câu Ly. Tuy nhiên, mặc dù "Đại Vương" cao hơn "vương" bình thường nhưng cũng chưa phải là "Hoàng đế".
 
Các nhà cai trị của nhà nước [[Bột Hải]] ([[698]]-[[926]]) bắt đầu tự xưng là Hoàng đế và đó là lần đầu tiên tước hiệu Hoàng đế được dùng ở Triều Tiên. Sau đó, nhiều vị vua Cao Ly cũng sử dụng đồng thời hai tước hiệu Đại vương và Hoàng đế. Tuy nhiên khi [[Chiến tranh Mông Cổ - Cao Ly|Cao Ly bị Mông Cổ xâm lược]] ([[1231]]-[[1258]]), các vua nhà Cao Ly bị tước bỏ danh hiệu danh hiệu Hoàng đế, chỉ còn là một vị Vương chư hầu của đế quốc Mông-Nguyên.
 
Các nhà cai trị của [[nhà Triều Tiên]] ([[1392]]-[[1897]]) không dùng danh hiệu Hoàng đế mà chỉ xưng là "Triều Tiên Quốc vương" (조선국왕, 朝鮮國王 ''Chosŏn Kukwang''). Năm [[1895]], Triều Tiên tuyên bố độc lập hoàn toàn từ ảnh hưởng của [[nhà Thanh]] bên [[Trung Quốc]], tuy nhiên tước hiệu "Đại Quân chủ Bệ hạ" (대군주폐하, 大君主陛下, ''Taekunchu P'aeha'') của vua [[Triều Tiên Cao Tông]] cũng không phải là tước hiệu Hoàng đế chính thức.