Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Voi chiến”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up |
n replaced: → (18) using AWB |
||
Dòng 6:
===[[Thuần dưỡng voi]]===
[[Hình:Kaiser Akbar bändigt einen Elefanten.jpg|nhỏ|upright|The [[Mughal Emperor]] [[Akbar Đại đế|Akbar]] is depicted training an [[elephant]].]]
Loài voi đầu tiên được thuần dưỡng là [[Voi châu Á]] để sử dụng trong nông nghiệp. Việc thuần dưỡng voi - không phải là sự thuần hóa đầy đủ vì chúng vẫn còn bị bắt trong hoang dã,chứ không phải được gây giống trong tình trạng nuôi nhốt. Có thể đã bắt đầu ở một trong 3 vùng đất khác nhau. Những bằng chứng cổ xưa nhất của voi được thuần hóa là ở khu vực Lưỡng Hà đạo, khoảng 4.500 năm trước đây.{{fact|date=7-2014}} Một khu vực khác là nền văn minh thung lũng sông Ấn, vào cùng khoảng thời gian này.<ref>[http://www.historyworld.net/wrldhis/PlainTextHistories.asp?ParagraphID=ayt#1822 HISTORY OF THE DOMESTICATION OF ANIMAL]</ref> Những bằng chứng về sự hiện diện của voi hoang dã là ở khu vực thung lũng sông Hoàng Hà vào thời [[nhà Thương]] (1600-1100 TCN) cũng đã dẫn đến việc Trung Quốc đang được đề xuất như là một nơi bắt đầu của việc thuần dưỡng voi.<ref>Schafer, 289–290.</ref>
===Thời cổ: Ba Tư, Ấn Độ và Alexandros xứ Macedonia ===
Dòng 16:
Một ghi nhận khác về voi chiến trong chiến tranh cổ đại xuất hiện trong sách "[[Persica]]" của [[Ctesias]], cũng là một sử gia Hy Lạp cổ.<ref name="AKurth101"/> Sách này cho hay vua Amoraios xứ Derbikes và các đồng minh Ấn Động đã triển khai voi chiến để chống lại quân xâm lược [[Đế quốc Ba Tư|Ba Tư]] do vua [[Cyrus Đại đế|Cyrus II]] chỉ huy vào năm 530 trước [[Công nguyên]]. Trận đánh diễn ra trên hướng đông bắc thượng nguồn sông [[Syr Darya]]; hai bên giao chiến ác liệt và đều chịu thương vong lớn. Thế trận xoay chuyển khi Amoraios xua tượng binh đột kích đánh tan kỵ binh Ba Tư, Cyrus bị trọng thương và được quân lính khiêng về doanh trại. Tuy nhiên, quân đội Ba Tư tiếp tục chiến đấu cho đến khi được quân tiếp viện xứ [[Sacae]] tiếp sức; người Derbikes cuối cùng cũng bị đánh bại và chấp nhận thần phục vương triều Ba Tư. Cả hai vua Cyrus và Amoraios đều chết trận.<ref name="AKurth101">Amélie Kuhrt, ''The Persian Empire'', Tập 2, trang 101</ref>.
Từ Ấn Độ, việc sử dụng voi trong quân đội đã lan về phía Tây tới [[đế quốc Ba Tư|đế chế Ba tư]], nơi chúng được sử dụng nhiều trong các chiến dịch và lần lượt ảnh hưởng đến các chiến dịch của vua Hy Lạp [[Alexandros Đại đế|Alexandros]]. Sự chạm trán đầu tiên giữa người châu Âu và voi chiến Ba tư được ghi nhận tại [[trận Gaugamela]] (331 TCN), nơi người Ba Tư triển khai 15 voi chiến.<ref>Chinnock, p.38.</ref>
Vào thời điểm Alexandros tiến tới biên giới Ấn Độ 5 năm sau, ông đã có một số lượng đáng kể voi dưới quyền của mình. Khi quân Hy Lạp tấn công vua [[Porus]] vùng [[Punjab]] (Ngũ Hà) tại Pakistan ngày nay, Alexandros đã tự mình nhận thấy
[[Tập tin:IRHT 126277-p.jpg|nhỏ|trái|[[Eleazar Maccabeus]] giết voi chiến và bị đè chết bởi nó (tranh minh họa trong sách ''[[Speculum Humanae Salvationis]]). ]]
Sự thành công của các lực lượng sử dụng voi tiếp tục tăng lên. Những người thừa kế đế chế của Alexandros, những Diadochi, đã sử dụng hàng trăm voi chiến Ấn Độ trong những cuộc chiến tranh của họ. trong đó [[vương quốc Seleukos]]
===Thời cổ đại: Địa Trung Hải===
Người [[Ai Cập]] và [[Carthage]] bắt đầu mua voi châu Phi cho cùng một mục đích, cũng như người [[Numidia]] và [[Kushites]]. Loài được sử dụng là [[voi rừng châu Phi]]<ref>''Loxodonta africana pharaohensis''.</ref>. Những loài khác nhỏ hơn được sử dụng là voi châu Á bởi vương quốc Seleukos ở phía đông của vùng Địa Trung Hải, đặc biệt là ở Syria, có chiều cao từ
Kể từ cuối những năm 1940 một số học giả đã cho rằng con voi rừng châu Phi được sử dụng bởi Numidia, thuộc triều đại Ptolemy và quân đội Punic đã không có tháp trong chiến đấu, có lẽ do sự yếu kém về thể chất của loài này <ref>Scullard (1948); (1974) 240-45</ref>. Có lời ghi chép đương đại rõ ràng rằng quân đội của [[Juba I của Numidia]] bao gồm
Dù trong quân sử vùng Địa Trung Hải, những cuộc chiến giữa quân [[Carthage]] và quân [[Cộng hòa|La Mã]] nổi tiếng hơn cả về sự tham chiến của lực lượng tượng binh, đây rõ là kết quả của việc sử dụng tượng binh của [[Ipiros (quốc gia cổ đại)|Vương quốc Ipiros]] thuộc nền văn minh Hy Lạp cổ xưa. Vua xứ Ipiros là [[Pyrros của Ipiros|Pyrros]] đích thân mang 20 voi chiến đi đánh quân La Mã trong trận đánh tại [[Trận Heraclea|Heraclea]] vào năm 280 TCN, để lại thêm năm mươi con nữa, mượn từ vua Ai Cập [[Ptolemaios II Philadelphos|Ptolemaios II]], trên đất liền. Người La Mã đã không chuẩn bị chống lại voi chiến, và các lực lượng Hy Lạp đánh bại người La Mã. Năm sau, người Hy Lạp một lần nữa triển khai một lực lượng voi tương tự, tấn công người La Mã tại [[trận Asculum]]. Thời gian này người La Mã có sự chuẩn bị với vũ khí dễ cháy và thiết bị chống voi: đó là những cỗ chiến xa do bò kéo, trang bị giáo dài để gây tổn thương cho voi, bình chứa lửa để đe dọa chúng.
Lấy cảm hứng từ những chiến thắng này, [[Carthage]] đã phát triển để sử dụng riêng cho mình những con voi chiến
Rome đã mang về nhiều voi ở phần cuối của cuộc chiến tranh Punic, và sử dụng chúng trong các chiến dịch của mình trong nhiều năm sau đó. Các cuộc chinh phục ở Hy Lạp đã cho thấy nhiều trận đánh mà trong đó người La Mã đã triển khai voi chiến, bao gồm các cuộc xâm lược Macedonia vào năm 199 TCN, cuộc chiến ở Cynoscelphalae năm 197 TCN,<ref>[http://www.roman-empire.net/army/cynoscephalae.html. The Battle of Cynoscephalae]</ref> [[trận Thermopylae]],<ref>The Syrian Wars, IV,16-20. English translation from: Horace White ed., 1899.</ref> và [[trận Magnesia]] năm 190 TCN, trong số năm mươi bốn con voi của Antiochos III đã rơi vào tay lực lượng La Mã tới mười sáu. Trong năm sau, người La Mã đã triển khai 22 con voi tại Pydna trong năm 168 TCN <ref>Davis, p. 51.</ref> Chúng cũng là lực lượng được sử dụng đặc trưng trong suốt chiến dịch La Mã chống lại người Celtiberia ở Hispania và chống lại người Gaul.
Dòng 48:
[[Hình:Bayon Angkor Relief1.jpg|nhỏ|phải|250px|[[Đế quốc Khmer|Các vua Campuchia]] đã sử duỵng voi chiến tấn công [[Chiêm Thành]] thế kỷ XII.]]
Xa hơn về phía đông, voi tiếp tục được sử dụng trong chiến tranh. Người Mông Cổ phải đối mặt với voi chiến ở Khorazm, Miến Điện, [[Đại Việt]] và Ấn Độ trong suốt thế kỷ XIII <ref>Kistler, p.200.</ref> Bất chấp chiến bại của họ trong các cuộc xâm lược Đại Việt và Ấn Độ, quân Mông Cổ đã đánh bại những con voi chiến bên ngoài [[Samarkand]] bằng cách sử dụng máy lăng đá và [[mangonel]], và ở Miến Điện bằng mưa tên từ những cây cung làm từ vật liệu tổng hợp nổi tiếng của họ <ref>Kistler, p.197.</ref>
Đã có ghi chép lại rằng vua [[Rajasinghe I]], khi ông đã tiến hành bao vây pháo đài của người Bồ Đào Nha tại Colombo, Sri Lanka trong năm 1558, đã có một đội quân gồm 2200 voi chiến<ref name="artsrilanka.org">http://artsrilanka.org/essays/elephants/index.html.</ref> Người Sri Lanka tiếp tục truyền thống tự hào của họ trong việc bắt và đào tạo những con voi từ thời cổ đại.. Viên quan phụ trách những chuồng ngựa hoàng gia, bao gồm cả việc bắt giữ voi, được gọi là ''Nilame Gajanayake'',<ref name="artsrilanka.org">{{Chú thích web|url=http://artsrilanka.org/essays/elephants/index.html |tiêu đề=Essays:: Elephants in Sri Lankan History and Culture |nhà xuất bản=Artsrilanka.org |ngày tháng= |ngày truy cập = ngày 13 tháng 8 năm 2012}}</ref>
|