Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sư tử”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 33:
 
'''Sư tử''' ([[danh pháp hai phần|tên khoa học]] ''Panthera leo'') là một trong những [[đại miêu]] trong [[họ Mèo]] và là một [[loài]] của [[chi Báo]]. Được xếp mức [[sắp nguy cấp]] trong thang [[sách Đỏ IUCN]] từ năm 1996, các quần thể loài này ở [[châu Phi]] đã bị sụt giảm khoảng 43% từ những năm đầu thập niên 1990. Trong văn hóa phương Tây, sư tử còn có biệt danh là '''[[Chúa tể sơn lâm]]''' (King of Beats) hay Vua sư tử (Lion King). Sư tử là lưỡng hình tình dục; con đực lớn hơn con cái với phạm vi trọng lượng điển hình từ 150 đến 250 kg (330 đến 550 lb) đối với con đực và 120 đến 182 kg (265 đến 400 lb) đối với con cái, là loài lớn thứ nhì [[họ Mèo]] sau [[hổ]]. Đối với sư tử đực thì rất dễ dàng nhận ra được bởi bờm của nó. Sư tử hoang dã hiện sinh sống ở vùng [[châu Phi hạ Saharan]] và [[châu Á]] (nơi quần thể còn sót lại cư ngụ ở [[vườn quốc gia Rừng Gir]] thuộc Ấn Độ), các phân loài sư tử tuyệt chủng từng sống ở [[Bắc Phi]] và [[Đông Nam Á]]. Cho tới cuối [[Pleistocene]], khoảng 10 000&nbsp;năm trước, '''sư tử''' là [[động vật có vú]] có phân bố rộng thứ 2 chỉ sau [[con người]]. Khi đó, chúng sống ở hầu khắp [[châu Phi]], ngang qua [[lục địa Á-Âu]] từ miền [[Tây Âu]] tới [[Ấn Độ]], và [[châu Mỹ]] từ [[Yukon]] tới [[Peru]].<ref name= Harington69>{{Cite journal |last=Harington |first=C. R. "Dick" |year= 1969 |title= Pleistocene remains of the lion-like cat (''Panthera atrox'') from the Yukon Territory and northern Alaska |journal=Canadian Journal of Earth Sciences |volume=6 |issue=5 |pages= 1277–88|doi= 10.1139/e69-127}}</ref> Sư tử là [[loài sắp nguy cấp]], chúng đã được liệt kê là loài dễ bị tổn thương trong [[sách đỏ IUCN]] kể từ năm 1996 bởi vì quần thể ở các nước châu Phi đã giảm khoảng 43% kể từ đầu những năm 1990. Nhiều quần thể sư tử không được bảo vệ bên ngoài những khu vực được chỉ định bảo vệ. Mặc dù nguyên nhân của sự suy giảm chưa được làm rõ một cách đầy đủ, nhưng mất môi trường sống và xung đột với con người là những nguyên nhân lớn nhất.
 
 
Sư tử sống từ 10–14 năm trong tự nhiên, trong môi trường giam cầm chúng có thể sống hơn 20 năm. Trong tự nhiên, con đực hiếm khi sống hơn 10 năm, do hậu quả của việc đánh nhau liên tục với các đối thủ đồng loại khác.<ref>{{chú thích sách |last=Smuts |first=G. L. |year=1982 |title=Lion|publisher=Macmillan South Africa |location=Johannesburg |page=231|isbn= 0-86954-122-6}}</ref> Chúng thường sống ở [[trảng cỏ|savan]] và [[thảo nguyên]] chứ không sống trong những khu rừng rậm rạp. Sư tử có tập tính xã hội khác biệt so với các loài [[họ Mèo]] còn lại với lối sống theo bầy đàn. Một đàn sư tử gồm con cái và con non của chúng cùng với một số nhỏ con đực trưởng thành. Các nhóm sư tử cái thường đi săn cùng nhau, chủ yếu săn những loài [[động vật móng guốc]] lớn. Chúng là loài [[động vật ăn thịt đầu bảng]] và chủ yếu ăn thịt sống, mặc dù chúng cũng sẽ ăn [[xác thối]] khi có cơ hội. Một số con sư tử đã được biết đến là có thể [[động vật ăn thịt người|săn người]], mặc dù đây là điều không thường thấy ở chúng.<ref name="earthtouch">[http://web.archive.org/web/20120420172909/http://www.earth-touch.com/result.php?i=Lions-nocturnal-chorus Lions' nocturnal chorus]. Earth-touch.com. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2013.</ref><ref name="phxzoo">[http://web.archive.org/web/20120415054339/http://www.phoenixzoo.org/learn/animals/animal_detail.aspx?FACT_SHEET_ID=100001 African Lion ''Panthera leo'']. Phoenix Zoo Fact Sheet.</ref>
Hàng 153 ⟶ 152:
 
===Lai tạo===
[[Tập tin:ALiger.jpg|nhỏ|250px|Một con '''Liger''', kích thước của nó lớn hơn nhiều so với bố mẹ và nhiều nhà khoa học cho rằng Liger sẽ không ngừng tăng kích thước trong suốt quảng đời của nó.]]
Sư tử đã được lai tạo với hổ, thường là [[hổ Siberia]] và [[hổ Bengal]], để tạo ra các giống lai được gọi là "[[sư hổ]]" và "hổ sư". Chúng cũng đã được lai với báo để tạo ra "báo sư".
 
Dòng 189:
 
===Sự khác biệt về màu sắc===
Sư tử trắng là một hình thái hiếm gặp với một tình trạng di truyền được gọi là leucism được gây ra bởi một [[tính trội (di truyền học)|alen lặn kép]]. Chúng không phải là [[bạch tạng]], chúng có màu này là do [[gen lặn]] (đây cũng là nguyên nhân sinh ra [[hổ trắng]], rất nhiều hổ trắng với gen lặn được nhân giống cho các vườn thú và để biểu diễn); Nó có sắc tố bình thường trong mắt và da. Sư tử trắng thỉnh thoảng được bắt gặp trong và xung quanh [[Vườn quốc gia Kruger]] và Khu bảo tồn tư nhân Timbavati Game liền kề ở phía đông Nam Phi. Sư tử trắng không có ưu thế khi đi săn; màu trắng của chúng dễ làm lộ chỗ ẩn nấp rình mồi của chúng.Chúng đã được đưa ra khỏi tự nhiên vào những năm 1970, do đó làm giảm nguồn gen sư tử trắng. Tuy nhiên, 17 ca sinh đã được ghi nhận trong năm đàn từ năm 2007 đến 2015. Sư tử trắng được chọn để nhân giống trong điều kiện nuôi nhốt. Chúng được báo cáo đã được nhân giống trong các trại ở Nam Phi để sử dụng làm chiến lợi phẩm để giết trong các cuộc săn bắn.
 
Một con sư tử trắng châu Á từ Khuzestan, Iran, có màu nâu sẫm với các mảng gần như đen, được mô tả bởi Austen Henry Layard.
 
== Phân bố và môi trường sống ==
Sư tử là loài động vật sống ở các [[đồng bằng]] rộng rãi, và chúng có thể được tìm thấy ở khắp mọi nơi ở [[châu Phi]]. Tuy nhiên chúng là loài đang bị đe dọa với quần thể chủ yếu sống chủ yếu ở vườn quốc gia của [[Tanzania]] và [[Cộng hòa Nam Phi|Nam Phi]]. Trước khi loài người chiếm ưu thế thì sư tử là loài động vật chiếm nhiều lãnh thổ nhất hơn bất kỳ loài động vật có vú trên đất liền.
 
Những dấu vết cuối cùng của [[sư tử châu Á]] (phân loài ''Panthera leo persica''), trong lịch sử chúng đã từng sinh sống từ [[Hy Lạp]] tới [[Ấn Độ]] ngang qua [[Iran|Persia]], hiện đang sống ở [[rừng Gir]] phía tây bắc Ấn Độ. Khoảng 300 con sư tử hiện còn sống trong khu vực rộng 1.412&nbsp;km² (khoảng 550 [[dặm vuông Anh|dặm vuông]]) trong khu bảo tồn ở bang [[Gujarat]].
 
[[Tập tin:Loewe 2.jpg|250px|nhỏ|trái|Một con sư tử cái đang đi dạo trên đồng cỏ [[Xavan]] [[châu Phi]].]]
Sư tử là loài động vật sống ở các [[đồng bằng]] rộng rãi, và chúng có thể được tìm thấy ở khắp mọi nơi ở [[châu Phi]]. Tuy nhiên chúng là loài đang bị đe dọa với quần thể chủ yếu sống chủ yếu ở các vườn quốc gia của [[Tanzania]] và [[Cộng hòa Nam Phi|Nam Phi]]. Trước khi loài người chiếm ưu thế thì sư tử là loài động vật chiếm nhiều lãnh thổ nhất hơn bất kỳ loài động vật có vú trên đất liền. Sư tử thích đồng cỏ và thảo nguyên, gần các con sông và rừng cây mở với những bụi cây. Chúng không sống trong rừng nhiệt đới và hiếm khi vào rừng kín. Trên [[núi Elgon]], sư tử đã được ghi nhận lên tới độ cao 3.600 m (11.800 ft) và gần với đường tuyết trên núi Kenya. Sư tử cũng xuất hiện ở đồng cỏ, thảo nguyên với những [[Chi Keo|cây keo]] rải rác, đóng vai trò là bóng mát cho chúng.
Sư tử đã tuyệt chủng ở Hy Lạp, tiền đồn cuối cùng ở [[châu Âu]] của chúng vào khoảng năm [[100]], nhưng chúng vẫn còn sống sót với một số lượng đáng kể ở [[Trung Đông]] và [[Bắc Phi]] cho đến đầu [[thế kỷ XX]]. Những con sư tử đã từng sống ở Bắc Phi, gọi là [[sư tử Barbary]], có xu hướng lớn hơn những con sống dưới sa mạc [[Sa mạc Sahara|Sahara]], và con đực có bờm lớn hơn. Chúng được cho là thuộc phân loài ''Panthera leo leo'', mặc dù điều này chưa được xác nhận. Các phân loài đã tuyệt chủng khác là [[sư tử Hảo Vọng]] (phân loài ''Panthera leo melanochaitus'') và [[sư tử châu Âu]] (phân loài ''Pathera leo spelaea'') đã từng tồn tại bên cạnh con người trong suốt thời kỳ của [[kỷ băng hà]] gần đây nhất.
 
Ở Châu Phi, phạm vi của sư tử ban đầu kéo dài hầu hết khu vực [[rừng mưa nhiệt đới]] trung tâm và [[sa mạc Sahara]]. Vào những năm 1960, nó đã tuyệt chủng ở [[Bắc Phi]], ngoại trừ ở phía nam [[Sudan]]. Hiện nay chúng thường được tìm thấy ở [[Cộng hòa Nam Phi|Nam Phi]], [[Zimbabwe]], [[Namibia]], [[Botswana]] và [[Mozambique]]. Chủ yếu chúng sinh sống ở những khu vực miền đất rừng, nhưng có thể sinh sống ở khu vực bán sa mạc hay khu vực đất có nhiều bụi rậm.
Sư tử là biểu tượng của các gia đình [[hoàng gia]] và các [[hiệp sĩ]]. Sư tử cũng xuất hiện trong nghệ thuật [[Trung Quốc]], mặc dù có lẽ sư tử chưa bao giờ sống ở Trung Quốc. Không có động vật nào xuất hiện nhiều hơn sư tử trong [[nghệ thuật]] và [[văn chương]]. [[C.A.W. Guggisberg]], trong cuốn sách ''Simba'' của mình, nói rằng sư tử được nhắc tới 130 lần trong [[Kinh Thánh]]. Сũng có thể tìm thấy sư tử trong các bức vẽ trên vách hang của [[thời đại đồ đá|thời kỳ đồ đá]].
 
Ở [[lục địa Á-Âu]], sư tử từng có thời gian phân bố rộng từ [[Hy Lạp]] đến Ấn Độ; [[Herodotus]] báo cáo rằng sư tử đã phổ biến ở Hy Lạp vào năm 480 trước Công nguyên; chúng tấn công những con lạc đà chở hàng của vua Ba Tư [[Xerxes I của Ba Tư|Xerxes I]] trên đường hành quân qua đất nước. [[Aristotles]] coi chúng là hiếm vào năm 300 trước Công nguyên và đến năm 100 sau Công nguyên, chúng đã bị tuyệt chủng. Cho đến thế kỷ thứ 10, những con sư tử sống sót ở [[Caucasus]], tiền đồn châu Âu cuối cùng của chúng. Loài này đã bị xóa sổ ở [[Palestine]] vào thời Trung cổ, và từ hầu hết các khu vực còn lại của châu Á sau khi xuất hiện các loại súng có sẵn trong thế kỷ 18. Từ cuối thế kỷ 19 đến cuối thế kỷ 20, nó đã tuyệt chủng ở [[Tây Nam Á]]. Vào cuối thế kỷ 19, sư tử đã bị tuyệt chủng ở hầu hết miền bắc Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ. Con sư tử sống cuối cùng ở [[Iran]] được nhìn thấy vào năm 1942, cách Dezful khoảng 65 km (40 dặm) về phía tây bắc. Xác chết của một con sư tử được tìm thấy bên bờ sông Karun, tỉnh Khūzestān, vào năm 1944. Không có báo cáo đáng tin cậy nào sau đó từ Iran.
Sư tử được tìm thấy ở [[Cộng hòa Nam Phi|Nam Phi]], [[Zimbabwe]], [[Namibia]], [[Botswana]] và [[Mozambique]]. Chủ yếu chúng sinh sống ở những khu vực miền đất rừng, nhưng có thể sinh sống ở khu vực bán sa mạc hay khu vực đất có nhiều bụi rậm. Mặc dù ít được nói đến do chúng có rất ít nhưng [[sư tử trắng]] vẫn còn tồn tại, chúng sống ở Timbavati, [[Cộng hòa Nam Phi|Nam Phi]]. Chúng có màu này là do [[gen lặn]] (đây cũng là nguyên nhân sinh ra [[hổ trắng]], rất nhiều hổ trắng với gen lặn được nhân giống cho các vườn thú và để biểu diễn). Sư tử trắng không có ưu thế khi đi săn; màu trắng của chúng dễ làm lộ chỗ ẩn nấp rình mồi của chúng.
 
Những dấu vết cuối cùng của [[sư tử châu Á]] (phân loài ''Panthera leo persica''), trong lịch sử chúng đã từng sinh sống từ [[Hy Lạp]] tới [[Ấn Độ]] ngang qua [[Iran|Persia]], hiện đang sống ở [[rừng Gir]] phía tây bắc Ấn Độ. Khoảng 300 con sư tử hiện còn sống trong khu vực rộng 1.412&nbsp;km² (khoảng 550 [[dặm vuông Anh|dặm vuông]]) trong khu bảo tồn ở bang [[Gujarat]].
 
== Tập tính và sinh thái học ==
[[Tập tin:Male Lion and Cub Chitwa South Africa Luca Galuzzi 2004.JPG|nhỏ|250px|phải|Hai con sư tử sau khi ăn thịt một con [[Trâu rừng châu Phi|trâu rừng]] lớn.]]
[[Tập tin:Asiatic.lioness.arp.jpg|nhỏ|phải|250px|Sư tử cái châu Á ''Panthera leo persica'', có tên MOTI, sinh ở vườn thú Helsinki ([[Phần Lan]]) tháng 10 năm 1994, đưa đến vườn thú Bristol ([[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Anh]]) tháng 1 năm 1996.]]
Sư tử dành phần lớn thời gian để nghỉ ngơi; chúng không hoạt động trong khoảng 20 giờ mỗi ngày. Mặc dù sư tử có thể hoạt động bất cứ lúc nào, hoạt động của chúng thường đạt đến đỉnh điểm sau [[hoàng hôn]] với thời gian giao tiếp, tắm rửa và đại tiện. Các đợt hoạt động không liên tục diễn ra cho đến [[bình minh]], khi việc săn mồi thường diễn ra nhất. Chúng dành trung bình hai giờ mỗi ngày để đi bộ và 50 phút để ăn.
===Săn mồi===
Giống như các loài thuộc họ mèo khác, chúng là những con thú săn mồi siêu hạng, nhưng không giống các loài khác chúng đi săn theo bầy và săn bắt các loài thú lớn và nguy hiểm cho những kẻ săn mồi đơn lẻ. Bộ lông màu cát của sư tử hòa lẫn một cách tuyệt vời với màu của những đồng cỏ xavan, giúp chúng ngụy trang thật tốt. [[Con mồi]] chủ yếu của chúng bao gồm [[ngựa vằn]], [[linh dương đầu bò]], [[trâu rừng châu Phi]], [[hươu cao cổ]], [[hà mã]] trưởng thành, và thậm chí là [[voi bụi rậm châu Phi]] gần trưởng thành, mặc dù những con voi trưởng thành là quá nguy hiểm cho sư tử để đối đầu nên sư tử thường nhắm những con voi con để dễ săn bắt. Khi đơn lẻ, nói chung chúng dễ dàng săn các con mồi nhỏ hơn chúng, bao gồm [[sơn dương]] (''Connochaetes''), [[linh dương]] (họ ''Bovidae''), [[linh dương Gazen]] (chi Gazella) và [[lợn nanh sừng châu Phi]] (''Phacochoerus africanus''). Những con sư tử sống gần bờ biển còn ăn thịt cả [[hải cẩu]].
 
===Cầu trúc bầy đàn===
Khi săn mồi đơn lẻ, chúng giết chết con mồi bằng cách cắn cổ để làm gãy cổ hay tổn thương hệ tuần hoàn máu. Khi săn theo đàn, sư tử có thể kìm kẹp con mồi lớn trong khi các con khác cắn cổ hay làm nghẹt thở con mồi bằng cách khóa mõm nạn nhân, không cho nó thở. Sư tử không thích tự tìm kiếm thức ăn, thông thường chúng đẩy lùi các kẻ săn mồi nhỏ hơn hay ít quân số hơn từ con mồi và giành lấy thức ăn. Sư tử cũng hay bị đuổi khỏi con mồi bởi những kẻ cạnh tranh như các đàn [[linh cẩu đốm]] và [[chó hoang châu Phi]] khi chúng áp đảo về số lượng. Giống như các thú họ mèo khác, chúng nhìn trong đêm rất tốt làm cho chúng rất linh hoạt trong đêm. Chúng có thể ngủ tới 20 giờ mỗi ngày.
Sư tử là loài xã hội nhất trong tất cả các loài mèo hoang dã, sống trong các nhóm cá thể có liên quan với con cái của chúng. Một nhóm như vậy được gọi là "đàn". Các nhóm sư tử đực được gọi là "liên minh". Con cái tạo thành một đơn vị xã hội ổn định trong một đàn và không khoan dung với con cái bên ngoài. Theo quy luật, tất cả các con cái trong đàn là có quan hệ họ hàng (bà, bác gái, cô, mẹ, chị em gái). Tư cách thành viên chỉ thay đổi theo sự sinh và tử của sư tử cái, mặc dù một số con cái rời đi và trở thành một cá thể "du mục". Một đàn trung bình bao gồm khoảng 15 con sư tử, bao gồm một vài con cái trưởng thành và lên đến bốn con đực và đàn con của cả hai giới. Những đàn lớn, bao gồm lên đến 30 cá thể, đã được quan sát. Ngoại lệ duy nhất cho mô hình này là đàn của sư tử Tsavo luôn chỉ có một con đực trưởng thành. Đàn con được loại trừ khỏi đàn của mẹ khi chúng trưởng thành vào khoảng hai hoặc ba tuổi.
 
Một số sư tử là "kẻ du mục" có phạm vi rộng và di chuyển xung quanh một cách rời rạc, theo cặp hoặc một mình. Các cặp thường xuyên hơn trong số những con đực có liên quan đã bị loại khỏi đàn khi sinh của chúng. Một con sư tử có thể thay đổi lối sống; sư tử đơn độc có thể nhập đàn và ngược lại. Tương tác giữa những sư tử sống theo đàn và sống đơn độc có xu hướng thù địch, mặc dù những con cái trong lúc động dục cho phép những sư tử đơn độc tiếp cận chúng. Con đực dành nhiều năm trong một giai đoạn sống đơn độc trước khi có được nơi cư trú trong một đàn sau đó. Một nghiên cứu được thực hiện tại Vườn quốc gia Serengeti cho thấy các liên minh "du mục" có được quyền cư trú từ 3,5 đến 7,3 tuổi. Trong Vườn quốc gia Kruger, những con sư tử đực phân tán di chuyển ra xa hơn 25 km (16 dặm) khỏi đàn tự nhiên của chúng để tìm kiếm lãnh thổ của chính chúng. Sư tử cái ở gần với đàn tự nhiên của chúng. Do đó, sư tử cái trong một khu vực có quan hệ gần gũi với nhau hơn so với sư tử đực trong cùng khu vực.
Sư tử cái, mặc dù kích thước nhỏ hơn, nhưng chúng thực hiện phần lớn việc săn và giết mồi. Sư tử cái không có bờm. Theo quy luật, tất cả các con cái trong đàn là có quan hệ họ hàng (bà, bác gái, cô, mẹ, chị em gái). Sư tử đực tồn tại chủ yếu là để bảo vệ bầy đàn; chúng là những kẻ chiến đấu tuyệt vời (bờm của sư tử là sự tiến hóa để phù hợp với những cuộc giao tranh; bờm cản lại những cú cắn và cào có thể rất nguy hiểm cho tính mạng), nhưng do bộ bờm, kích thước lớn và khó khăn trong ẩn nấp, chúng không hiệu quả trong việc săn mồi.
 
Khu vực bị chiếm giữ bởi một đàn được gọi là "khu vực đàn" trong khi khu vực chiếm đóng của một con sư tử du mục là một "phạm vi". Con đực gắn liền với một đàn có xu hướng ở lại rìa, tuần tra lãnh thổ của chúng. Những lý do cho sự phát triển của xã hội ở sư tử cái - rõ rệt nhất trong bất kỳ loài mèo nào - là chủ đề của nhiều cuộc tranh luận. Thành công trong săn mồi gia tăng dường như là một lý do rõ ràng, nhưng điều này không chắc chắn khi kiểm tra; khi chúng phối hợp với nhau để săn mồi thành công hơn. Tuy nhiên, một số con cái đảm nhận vai trò nuôi con có thể bị bỏ lại một mình trong thời gian dài. Các thành viên của đàn có xu hướng thường xuyên đóng vai trò tương tự trong các cuộc săn mồi và trau dồi kỹ năng của chúng. Sức khỏe của những thành viên đảm nhiệm việc săn mồi là nhu cầu chính cho sự sống còn của cả đàn; chúng là những thành viên đầu tiên ăn con mồi tại địa điểm mà nó bắt được. Các lợi ích khác bao gồm lựa chọn họ hàng có thể - tốt hơn là chia sẻ thức ăn với một con sư tử có liên quan hơn với một kẻ lạ - bảo vệ con non, bảo vệ lãnh thổ và đói.
Sư tử đực nhận phần thức ăn của chúng từ mọi con mồi mà bầy đàn săn được. Đó thường là các cuộc giao tranh với các con sư tử đực lang thang không có bầy, những con này tìm cách chiếm những bầy sư tử mà chúng có thể bằng cách giết những con sư tử đực trong bầy và lũ con của chúng, nếu thành công chúng sẽ chiếm được vị thế và có thể sinh sản Các con sư tử cái 'sở hữu' những khu vực đất săn mồi của chúng.
[[File:Hyenas Fight Against Lions Over a Kill HD 10.png|thumb|left|Sư tử bị đàn linh cẩu tấn công]]
Phần lớn các con mồi vẫn giữ được bình tĩnh khi chúng phát hiện ra sư tử; nói chung sư tử thiếu sức chịu đựng trong những cuộc rượt đuổi kéo dài, ngược lại với chó hoang. Vì vậy mọi con sư tử khôn ngoan đều biết rút ngắn khoảng cách với con mồi hết mức có thể trước khi tung đòn quyết định. Kẻ thù tự nhiên bao gồm những kẻ cạnh tranh như [[cá sấu sông Nile]], linh cẩu và chó hoang, nhưng đặc biệt là các con sư tử khác. Một số con mồi (ngựa vằn, hà mã, voi) có thể đánh cho sư tử què hay chết bằng những cú đá hay húc.
 
Cả con đực và con cái đều bảo vệ đàn trước những kẻ xâm nhập nhưng sư tử đực thích hợp hơn cho mục đích này nhờ vào công trình tích trữ, mạnh mẽ hơn. Một số cá thể liên tục dẫn đầu phòng thủ chống lại những kẻ xâm nhập, trong khi những con khác tụt lại phía sau. Sư tử có xu hướng đảm nhận vai trò cụ thể trong đàn; các thành viên khác di chuyển chậm hơn có thể cung cấp các dịch vụ có giá trị khác cho nhóm. Ngoài ra, có thể có những phần thưởng liên quan đến việc tự lãnh đạo chống lại những kẻ xâm nhập; cấp bậc của sư tử trong đàn được phản ánh trong những phản ứng này. Con đực gắn liền với đàn phải bảo vệ mối quan hệ của chúng với đàn từ những con đực bên ngoài, những kẻ có thể cố gắng chiếm đoạt chúng.
Dù có kích thước lớn nhưng sư tử chạy rất nhanh, nhất là sư tử cái. Sư tử có thể đạt đến tốc độ chạy lên đến hơn 80&nbsp;km/h <ref>{{Chú thích web | url = http://thvl.vn/?p=121438 | tiêu đề = Những ‘tay đua’ siêu tốc trong thế giới hoang dã | tác giả 1 = | ngày = | ngày truy cập = 7 tháng 2 năm 2015 | nơi xuất bản = | ngôn ngữ = }}</ref> mặc dù chúng chỉ có thể duy trì tốc độ này trong một thời gian ngắn. Sư tử cũng biết bơi và trèo cây nhưng tỏ ra khá vụng về với hai việc này. Sư tử thường trèo lên cây để đánh cắp mồi của [[báo hoa mai]] hay bơi qua sông để theo sau các bầy thú vượt sông hoặc đi tìm lãnh thổ cho mình (thường là với những con sư tử không có lãnh thổ). Khác với hổ, khi bị sư tử tấn công, ta không thể thoát bằng cách trèo lên cây nhưng nếu nhảy xuống sông sư tử sẽ không đuổi theo vì chúng không tự tin khi xuống nước.
 
Đàn của sư tử châu Á khác với sư tử châu Phi trong thành phần nhóm. Sư tử đực châu Á đơn độc hoặc liên kết với tối đa ba con đực, tạo thành một đàn lỏng lẻo. Các cặp con đực nghỉ ngơi và ăn cùng nhau, và hiển thị hành vi đánh dấu tại cùng một nơi. Con cái liên kết với tối đa 12 con cái khác, tạo thành một đàn mạnh mẽ hơn cùng với đàn con của chúng. Chúng chia sẻ thức ăn lớn với nhau nhưng hiếm khi chia sẻ thức ăn với con đực. Sư tử cái và đực chỉ liên kết khi giao phối. Liên minh của con đực giữ lãnh thổ trong một thời gian dài hơn so với sư tử đơn lẻ. Con đực trong liên minh gồm ba hoặc bốn cá thể thể hiện một hệ thống phân cấp rõ rệt, trong đó một con đực thống trị những con khác. Những con đực thống trị giao phối thường xuyên hơn so với các đối tác liên minh của chúng; trong một nghiên cứu được thực hiện trong khoảng thời gian từ tháng 12 năm 2012 đến tháng 12 năm 2016, ba con cái đã được quan sát thấy các đối tác giao phối có lợi cho con đực thống trị.
Sư tử có 13 đôi xương sườn.<ref>{{Chú thích web | url = http://catnip-war-criminal.deviantart.com/art/Lion-Skeleton-130619468 | tiêu đề = Lion Skeleton. by Catnip | tác giả 1 = | ngày = | ngày truy cập = 7 tháng 2 năm 2015 | nơi xuất bản = | ngôn ngữ = }}</ref> Sư tử cái sinh từ 1-5 con non, sau chu kỳ [[mang thai]] kéo dài 3 tháng. Con non có thể bú kéo dài tới 18 tháng nhưng thông thường bị cai sữa sau 8 tuần. Tỷ lệ tử vong của chúng khá cao do chết đói, tấn công của các thú ăn thịt khác và đặc biệt là bởi sư tử đực khi nó chiếm lĩnh bầy đàn.
 
===Săn mồi===
Giống như các loài thuộc họ mèo khác, chúng là những con thú săn mồi siêu hạng, nhưngvà là [[động vật ăn thịt đầu bảng]] [[loài chủ chốt|chủ chốt]] nhờ quần thể con mồi dồi dào. Nhưng không giống các loài khác, chúng đi săn theo bầy và săn bắt các loài thú lớn và nguy hiểm cho những kẻ săn mồi đơn lẻ. Bộ lông màu cát của sư tử hòa lẫn một cách tuyệt vời với màu của những đồng cỏ xavan, giúp chúng ngụy trang thật tốt. [[Con mồi]] chủ yếu của chúng là những động vật có vú khác - đặc biệt là [[động vật móng guốc]] - nặng 190-550 kg (420-1,210 lb) bao gồm [[ngựa vằn đồng bằng]], [[linh dương đầu bò xanh]], [[trâu rừng châu Phi]], [[linh dương Gemsbok]], [[hươu cao cổ]], [[hà mã]] trưởng thành, và thậm chí là [[voi bụi rậm châu Phi]] gần trưởng thành, mặc dù những con voi trưởng thành là quá nguy hiểm cho sư tử để đối đầu nên sư tử thường nhắm những con voi con để dễ săn bắt. Khi đơn lẻ, nói chung chúng dễ dàng săn các con mồi nhỏ hơn chúng, bao gồm [[sơn dương]] (''Connochaetes''), [[linh dương]] (họ ''Bovidae''), [[linh dương Gazen]] (chi Gazella) [[thỏ rừng]] và [[lợn nanh sừng châu Phi]] (''Phacochoerus africanus''). Sư tử săn [[lợn thiến thông thường]] tùy thuộc vào tình trạng sẵn có, mặc dù loài này nằm dưới phạm vi trọng lượng ưa thích. Những con sư tử sống gần bờ biển còn ăn thịt cả [[hải cẩu]]. Sư tử cũng tấn công vật nuôi trong nhà, đặc biệt ở Ấn Độ [[gia súc]] đóng góp đáng kể vào chế độ ăn uống của chúng. Những con mồi bất thường bao gồm [[nhím]] và [[bò sát]] nhỏ. Sư tử cũng giết những kẻ săn mồi khác như [[báo hoa mai]], [[báo săn]] và [[linh cẩu đốm]] nhưng hiếm khi ăn chúng.
 
Khi săn mồi đơn lẻ, chúng giết chết con mồi bằng cách cắn cổ để làm gãy cổ hay tổn thương hệ tuần hoàn máu. Khi săn theo đàn, sư tử có thể kìm kẹp con mồi lớn trong khi các con khác cắn cổ hay làm nghẹt thở con mồi bằng cách khóa mõm nạn nhân, không cho nó thở. Sư tử không thích tự tìm kiếm thức ăn, thông thường chúng đẩy lùi các kẻ săn mồi nhỏ hơn hay ít quân số hơn từ con mồi và giành lấy thức ăn. Sư tử cũng hay bị đuổi khỏi con mồi bởi những kẻ cạnh tranh như các đàn [[linh cẩu đốm]] và [[chó hoang châu Phi]] khi chúng áp đảo về số lượng. Giống như các thú họ mèo khác, chúng nhìn trong đêm rất tốt làm cho chúng rất linh hoạt trong đêm. Chúng có thể ngủ tới 20 giờ mỗi ngày.
== Loài lai==
[[Tập tin:ALiger.jpg|nhỏ|250px|Một con '''Liger''', kích thước của nó lớn hơn nhiều so với bố mẹ và nhiều nhà khoa học cho rằng Liger sẽ không ngừng tăng kích thước trong suốt quảng đời của nó.]]
Sư tử có thể cho giao phối chéo với họ hàng gần của nó là hổ (thông thường chủ yếu là hổ Siberi), khi bị giam cầm để tạo ra [[Sư tử lai hổ|con lai]] rất thú vị. Trong [[tiếng Việt]] không có từ để gọi con lai như vậy, còn trong [[tiếng Anh]] là ''liger'' và ''tiglon''. Liger và tiglon cái có khả năng sinh sản và có thể thụ thai nếu được thụ tinh với hoặc là sư tử thuần chủng hoặc là hổ thuần chủng.
 
Có sự khác biệt địa phương trong việc lựa chọn con mồi và ở nhiều khu vực, một số lượng nhỏ các loài chiếm phần lớn trong chế độ ăn của sư tử. Trong Công viên Quốc gia Serengeti, [[linh dương đầu bò]], [[ngựa vằn]] và [[linh dương Thompson]] chiếm phần lớn con mồi của sư tử. Trong Vườn quốc gia Kruger, hươu cao cổ, ngựa vằn và trâu rừng là những loài được săn nhiều nhất. Trong Công viên Manyara, trâu rừng được ước tính chiếm khoảng 62% lượng thịt của sư tử. Trong Công viên Quốc gia Rừng Gir ở Ấn Độ, [[nai]] và [[huơu đốm]] là những con mồi hoang dã được ghi nhận phổ biến nhất. Ở đồng bằng Okavango, con mồi tiềm năng di cư theo mùa. Có tới tám loài chiếm 3/4 khẩu phần ăn của sư tử. Kích thước và tính chất thủy sinh của hà mã có nghĩa là nó thường không có sẵn như là con mồi nhưng sư tử ở Công viên Quốc gia Virunga thỉnh thoảng săn hà mã con, và ở Công viên Quốc gia Gorongosa, chúng cũng săn hà mã trưởng thành. Trong đầm lầy Savuti ở Công viên quốc gia Chobe Botswana, sư tử đã được quan sát đã săn những con voi bụi rậm châu Phi chưa trưởng thành trong mùa khô, và đôi khi trưởng thành, khi động vật móng guốc đã di cư ra khỏi khu vực. Vào tháng 10 năm 2005, một đàn sư tử lên tới 30 con đã giết và tiêu diệt tám con voi châu Phi từ bốn đến mười một tuổi. Tỷ lệ trọng lượng của con mồi với động vật ăn thịt là 10-15: 1 giữa voi và sư tử là tỷ lệ cao nhất được biết đến trong số các động vật có vú trên cạn.
'''Liger''' ([[sư hổ]]): sinh ra khi sư tử đực giao phối với [[hổ|hổ cái]]. Nếu bạn cho rằng hổ Siberia là loài mèo lớn nhất thế giới hiện nay thì bạn đã lầm. Ngôi vị ấy thuộc về đứa con lai giữa sư tử bố và mẹ hổ. Tiếng Anh lion là sư tử, tiger là hổ, nên loài "mèo" lớn nhất hiện nay là liger. Tính cách của nó thất thường, vì trong một chủ thể xuất hiện sự xung đột tính cách khác nhau giữa một loài có cuộc sống xã hội (sư tử) và một loài sống đơn độc (hổ). Vì sư tử đực truyền cho con gen tăng trưởng, nhưng gen ngăn chặn tăng trưởng tương ứng từ hổ cái lại không có, nên liger to lớn hơn bố mẹ của chúng. Người ta nói rằng liger không ngừng lớn và sẽ lớn đều đều suốt trong cuộc đời của chúng, cho đến khi cơ thể của chúng không thể chịu đựng được kích thước to lớn của chúng lâu thêm nữa, đạt tới 500&nbsp;kg. Liger chia sẻ một số đặc điểm của cả bố và mẹ (đốm và vằn) tuy nhiên chúng thích bơi lội, một hoạt động thuần túy của hổ, và chúng luôn luôn có lông màu cát giống như sư tử. Con liger đực là vô sinh, nhưng con liger cái có khả năng sinh sản.
 
Sư tử non lần đầu tiên thể hiện hành vi rình rập săn mồi ở khoảng ba tháng tuổi, mặc dù chúng không tham gia săn mồi cho đến khi gần một tuổi và bắt đầu săn mồi hiệu quả khi gần hai tuổi. Những con sư tử đơn lẻ có khả năng hạ con mồi gấp đôi kích thước của chúng, chẳng hạn như ngựa vằn và linh dương đầu bò, trong khi săn những con mồi lớn hơn như hươu cao cổ và trâu một mình thì quá nguy hiểm. Sư tử săn mồi theo đàn thường thành công. Sư tử cái, mặc dù kích thước nhỏ hơn, nhưng chúng thực hiện phần lớn việc săn và giết mồi. Trong các cuộc săn mồi điển hình, mỗi con sư tử cái có một vị trí ưa thích trong nhóm, hoặc rình rập con mồi trên "cánh" sau đó tấn công hoặc di chuyển một khoảng cách nhỏ hơn ở trung tâm của nhóm và bắt con mồi chạy trốn khỏi những con sư tử khác. Những con đực gắn liền với đàn thường không tham gia săn theo nhóm. Sư tử đực tồn tại chủ yếu là để bảo vệ bầy đàn; chúng là những kẻ chiến đấu tuyệt vời (bờm của sư tử là sự tiến hóa để phù hợp với những cuộc giao tranh; bờm cản lại những cú cắn và cào có thể rất nguy hiểm cho tính mạng), nhưng do bộ bờm, kích thước lớn và khó khăn trong ẩn nấp, chúng không hiệu quả trong việc săn mồi. Tuy nhiên, một số bằng chứng cho thấy con đực cũng thành công như con cái; chúng thường là những thợ săn đơn lẻ, phục kích con mồi trong vùng đất nhỏ. Sư tử không được biết đến đặc biệt vì sức chịu đựng của chúng - ví dụ, trái tim của một con sư tử chỉ chiếm 0,57% trọng lượng cơ thể của nó và con đực chiếm khoảng 0,45% trọng lượng cơ thể của nó, trong khi trái tim của linh cẩu chiếm gần 1% trọng lượng cơ thể. Do đó, sư tử chỉ chạy nhanh trong những đợt ngắn và cần phải ở gần con mồi trước khi bắt đầu tấn công. Chúng tận dụng các yếu tố làm giảm tầm nhìn; nhiều cách giết mồi diễn ra gần một số hình thức che phủ hoặc vào ban đêm. Bởi vì sư tử là thợ săn phục kích, nhiều nông dân gần đây đã phát hiện ra rằng sư tử rất dễ nản lòng nếu chúng nghĩ rằng con mồi đã nhìn thấy chúng. Để bảo vệ gia súc của họ khỏi những cuộc tấn công như vậy, nông dân đã thấy hiệu quả là vẽ mắt trên thân của mỗi con bò, điều này thường đủ để khiến những con sư tử săn mồi nghĩ rằng chúng đã bị phát hiện và chọn con mồi dễ dàng hơn.
'''Tiglon''' ([[hổ sư]]): là giao phối chéo của sư tử cái và hổ đực. Vì hổ đực không truyền gen tăng trưởng mà sư tử cái lại truyền gen kìm hãm tăng trưởng, nên tiglon thông thường là rất nhỏ, và có thể được miêu tả tốt nhất giống như là "giống như con mèo nhà" về biểu hiện bề ngoài và kích thước, mặc dù chúng có tai tròn. Giống như liger đực, tiglon đực là vô sinh, và chúng cả hai đều có đốm và vằn, với mắt màu vàng.
Phần lớn các con mồi vẫn giữ được bình tĩnh khi chúng phát hiện ra sư tử; nói chung sư tử thiếu sức chịu đựng trong những cuộc rượt đuổi kéo dài, ngược lại với chó hoang. Vì vậy mọi con sư tử khôn ngoan đều biết rút ngắn khoảng cách với con mồi hết mức có thể trước khi tung đòn quyết định. Kẻ thù tự nhiên bao gồm những kẻ cạnh tranh như [[cá sấu sông Nile]], linh cẩu và chó hoang, nhưng đặc biệt là các con sư tử khác. Một số con mồi (ngựa vằn, hà mã, voi) có thể đánh cho sư tử què hay chết bằng những cú đá hay húc.
[[File:Hyenas Fight Against Lions Over a Kill HD 10.png|thumb|left|Sư tử bị đàn linh cẩu tấn công]]
Dù có kích thước lớn nhưng sư tử chạy rất nhanh, nhất là sư tử cái. Sư tử có thể đạt đến tốc độ chạy lên đến hơn 80&nbsp;km/h <ref>{{Chú thích web | url = http://thvl.vn/?p=121438 | tiêu đề = Những ‘tay đua’ siêu tốc trong thế giới hoang dã | tác giả 1 = | ngày = | ngày truy cập = 7 tháng 2 năm 2015 | nơi xuất bản = | ngôn ngữ = }}</ref> mặc dù chúng chỉ có thể duy trì tốc độ này trong một thời gian ngắn. Sư tử cũng biết bơi và trèo cây nhưng tỏ ra khá vụng về với hai việc này. Sư tử thường trèo lên cây để đánh cắp mồi của [[báo hoa mai]] hay bơi qua sông để theo sau các bầy thú vượt sông hoặc đi tìm lãnh thổ cho mình (thường là với những con sư tử không có lãnh thổ). Khác với hổ, khi bị sư tử tấn công, ta không thể thoát bằng cách trèo lên cây nhưng nếu nhảy xuống sông sư tử sẽ không đuổi theo vì chúng không tự tin khi xuống nước.
 
Sư tử có 13 đôi xương sườn.<ref>{{Chú thích web | url = http://catnip-war-criminal.deviantart.com/art/Lion-Skeleton-130619468 | tiêu đề = Lion Skeleton. by Catnip | tác giả 1 = | ngày = | ngày truy cập = 7 tháng 2 năm 2015 | nơi xuất bản = | ngôn ngữ = }}</ref> Sư tử cái sinh từ 1-5 con non, sau chu kỳ [[mang thai]] kéo dài 3 tháng. Con non có thể bú kéo dài tới 18 tháng nhưng thông thường bị cai sữa sau 8 tuần. Tỷ lệ tử vong của chúng khá cao do chết đói, tấn công của các thú ăn thịt khác và đặc biệt là bởi những sư tử đực khác khi nó chiếm lĩnh bầy đàn.
 
== Tấn công con người ==
Dòng 245:
[[Tập tin:Leone di bronzo in Piazza.jpg|nhỏ|250px|Tượng sư tử ở [[Barzio]], [[Ý]].]]
[[File:China - Beijing 12 - lion outside the Tibetan Monastery (134036069).jpg|left|thumb|upright|Tượng sư tử đá ở [[Bắc Kinh]], [[Trung Quốc]].]]
Sư tử là đề tài được sử dụng rộng rãi trong [[điêu khắc]] và [[tạc tượng]] để tạo ra cảm giác cao quý hay hùng dũng, đặc biệt là ở những công trình xây dựng công cộng. Tượng sư tử đáng chú ý bao gồm những bức quanh tượng [[đô đốc Nelson]] ở quảng trường Trafalgar ở [[Luân Đôn]]. Các nhóm tượng khác là bốn con sư tử bảo vệ lối vào của [[cầu Britannia]] vượt qua [[eo biển Menai]] ở [[Wales]]. Ở Trung Quốc và Việt Nam rất thịnh hành tượng [[sư tử đá Trung Quốc]], [[người Trung Quốc]] sử dụng con sư tử đá của họ để canh [[mộ]] trong khi rất nhiều [[người Việt Nam]] lại kính cẩn thờ chúng, đặt chúng trước cửa [[cơ quan]], [[công sở]], [[chùa]] chiền, [[nhà]] riêng và thậm chí trước các di tích lịch sử.
 
 
Sư tử là biểu tượng của các gia đình [[hoàng gia]] và các [[hiệp sĩ]]. Sư tử cũng xuất hiện trong nghệ thuật [[Trung Quốc]], mặc dù có lẽ sư tử chưa bao giờ sống ở Trung Quốc. Không có động vật nào xuất hiện nhiều hơn sư tử trong [[nghệ thuật]] và [[văn chương]]. [[C.A.W. Guggisberg]], trong cuốn sách ''Simba'' của mình, nói rằng sư tử được nhắc tới 130 lần trong [[Kinh Thánh]]. Сũng có thể tìm thấy sư tử trong các bức vẽ trên vách hang của [[thời đại đồ đá|thời kỳ đồ đá]]. Ở Trung Quốc và Việt Nam rất thịnh hành tượng [[sư tử đá Trung Quốc]], [[người Trung Quốc]] sử dụng con sư tử đá của họ để canh [[mộ]] trong khi rất nhiều [[người Việt Nam]] lại kính cẩn thờ chúng, đặt chúng trước cửa [[cơ quan]], [[công sở]], [[chùa]] chiền, [[nhà]] riêng và thậm chí trước các di tích lịch sử.
 
==Hình ảnh==