Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Uzbekistan”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Amirobot (thảo luận | đóng góp)
Pq (thảo luận | đóng góp)
Dòng 37:
 
== Lịch sử ==
Năm [[1924]], đường biên giới đơn vị chính trị tại [[Trung Á]] were changed along ethnic lines determined by [[Lenin]]’s [[Commissar]] for [[Narkomnats|Nationalities]], [[Joseph Stalin]]. The [[Turkestan ASSR]], the [[Bukharan People's Republic]], and the [[Khorezm SSR|Khorezm People's Republic]] were abolished and their territories were divided into eventually five separate [[Republics of the Liên Xô|Soviet Socialist Republics]], one of which was the '''Uzbek Soviet Socialist Republic''' ('''Uzbek SSR'''), created on 27 tháng 10 năm 1924. The next year the Uzbek SSR became one of the republics of the Union of Soviet Socialist Republics ([[Liên Xô]]).
 
Uzbekistan SSR bao gồm [[Tajik ASSR]] trước [[1929]], khi mà địa vị của Tajik ASSR được nâng lên trạng thái cân bằng. Năm [[1930]], thủ đô của Uzbekistan SSR được tái lập lại từ [[Samarkand]] thành [[Tashkent]]. Năm 1936, lãnh thổ của Uzbekistan SSR được mở rộng vì có thêm [[Karakalpak ASSR]] từ [[Kazakh SSR]] trong giai đoạn cuối cùng của [[Giới hạn Quốc gia trong Liên bang Xô viết]]. Sau này một phần nhỏ lãnh thổ đã được đổi qua lại vài lần giữa Kazakh SSR và Uzbekistan SSR sau Thế chiến II.
 
Hàng 45 ⟶ 43:
Những năm 1937-38, trong cuộc "[[Đại thanh trừng]]", một số người bị cho là theo chủ nghĩa dân tộc đã bị hành quyết, bao gồm [[Faizullah Khojaev]], thủ tướng đầu tiên.
 
Trong thời kỳ [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến II]], rất nhiều các nước công nghiệp đã chuyển tới Uzbekistan SSR từ các vùng nguy hiểm ở phía tây của СССР để bảo đảm an toàn.
[[Tập tin:UzbekistanposterEdit.jpg|nhỏ|trái|Tranh cổ động tưởng nhớ Thế chiến II kỷ niệm lần thứ 20 của Uzbekistan SSR]]
Trong thời kỳ [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến II]], rất nhiều các nước công nghiệp đã chuyển tới Uzbekistan SSR từ các vùng nguy hiểm ở phía tây của СССР để bảo đảm an toàn. Phần lớn [[Russians]], [[Ukrainians]] and other nationalities accompanied the factories, altering the [[demographics]] of the republic. The demographics situation was further aggravated by Stalin’s relocation of some ethnic groups suspected of collaboration with the Axis powers from other parts of the USSR to the Uzbek SSR. This included large numbers of ethnic [[Koreans]], [[Crimean Tatars]], and [[Chechens]].
 
Trong thời kỳ Xô viết, [[Islam]] trở thành một điểm nóng của chống tôn giáo trong chính quyền Cộng sản. Chính phủ đóng cửa phần lớn các miếu thờ , và các trường học tôn giáo trở thành bảo tàng chống tôn giáo.
 
[[Đảng Cộng sản]] là Đảng hợp pháp duy nhất tại Uzbekistan SSR trước 1990. The first secretary, or head, of the Communist Party of Uzbekistan was consistently an Uzbek. Chủ tịch cầm quyền lâu nhất tại [[Uzbekistan SSR]] là [[Sharof Rashidov]], đứng đầu Đảng Cộng sản Uzbekistan từ năm 1959 đến 1983. [[Islom Karimov]], đứng đầu Đảng Cộng sản Uzbekistan từ năm 1989 và sau này nắm quyền Đảng mới, '''Đảng Dân chủ Nhân dân''' (PDP), trở thành tổng thống Uzbekistan SSR năm 1990.
Another major development, one with future catastrophic impact, was the drive initiated in the early 1960s to substantially increase [[cotton]] production in the republic. This drive led to overzealous [[irrigation]] withdrawals of irrigation water from the [[Amu Darya]] and the subsequent [[Aral Sea]] ecological disaster.
 
[[Đảng Cộng sản]] là Đảng hợp pháp duy nhất tại Uzbekistan SSR trước 1990. The first secretary, or head, of the Communist Party of Uzbekistan was consistently an Uzbek. Chủ tịch cầm quyền lâu nhất tại [[Uzbekistan SSR]] là [[Sharof Rashidov]], đứng đầu Đảng Cộng sản Uzbekistan từ năm 1959 đến 1983. [[Islom Karimov]], đứng đầu Đảng Cộng sản Uzbekistan từ năm 1989 và sau này nắm quyền Đảng mới, '''Đảng Dân chủ Nhân dân''' (PDP), trở thành tổng thống Uzbekistan SSR năm 1990.
 
Vào ngày [[1 tháng 9]] năm [[1991]], Uzbekistan SSR đổi tên thành ''Uzbekistan Cộng hoà'', trước đây là một phần của [[СССР|Liên Xô]] trước [[26 tháng 12]] năm [[1991]]. Với việc tan rã hoàn toàn của СССР , Uzbekistan SSR trở thành Quốc gia độc lập [[Uzbekistan]]. Karimov làm tổng thống từ đó.