Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hệ thống phóng máy bay”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Pq (thảo luận | đóng góp)
Solemn (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 4:
 
Trước máy bay cất cánh, một thanh giằng sẽ giữ hệ phóng đứng yên trong khi piston tích áp suất hơi, đến khi áp suất trong piston đã đủ yêu cầu, thanh giằng được giải phóng, piston đẩy máy bay gắn trên con thoi chạy dọc đường cất cánh với vận tốc cao. Trong vòng từ 2 đến 4 giây trên đường chạy, với vận tốc do hệ thống phóng cung cấp, máy bay có thể cất cánh khỏi tàu.
 
==Lịch sử phát triển==
Lịch sử hệ thống phóng truy về từ khi hình thành lịch sử ngành hàng không với các hệ thống phóng thử nghiệm của Samuel Langley năm 1903, anh em nhà Wright năm 1904 đã sử dụng một hệ thống để trợ giúp cất cánh trong một phạm vi hẹp.
 
Tháng 7 năm 1912, Theodore Gordon Ellyson thành người đầu tiên cất cánh bằng hệ thống phóng máy bay hoạt động bằng khí nén của [[Hải quân Hoa Kì]] tại căn cứ Santee, bang Maryland. Tuy nhiên đây là cuộc cất cánh không thành công, máy bay rời khỏi mặt đất và bị gió đẩy lật rơi xuống nước. Đến tháng 11 cùng năm, cũng Ellyson thực hiện thành công vụ phóng máy bay đầu tiên trong lịch sử, từ một xà lan chở than đứng yên. Đến năm 1915, H. C. Mustin thực hiện thành công cuộc cất cánh từ tàu đang di chuyển.
 
[[Thể loại:Hàng không]]