Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nhà Tống”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 133:
 
Sau khi Vương An Thạch bị bãi chức, Tống Thần Tông kế tục sự nghiệp cải cách, hiệu là "Nguyên Phong cải chế". "Nguyên Phong cải chế" dù cùng với "Hi Ninh biến pháp" được gọi chung là "Hi Phong tân pháp", song cường độ thì không sánh được với "Hi Ninh biến pháp". Sau cải chế, quốc lực dần mạnh lên, Tống Thần Tông đưa trọng điểm chuyển dịch sang đối ngoại, quyết tâm tiêu diệt Tây Hạ. Tháng năm năm Hi Ninh thứ 5 (1072), Tống Thần Tông bắt đầu tây chinh, giành được đại thắng, lòng tin của Thần Tông được cổ vũ rất nhiều. Chín năm sau, vào tháng 4 năm Nguyên Phong thứ 4 (1081), Tây Hạ phát sinh chính biến, Tống Thần Tông nhân cơ hội này tiến hành tái chinh phạt Tây Hạ, không ngờ lại thảm bại, Tống Thần Tông do vậy mắc bệnh không khỏi được. Tháng một năm Nguyên Phong thứ 8 (1085), Tống Thần Tông lập lục tử [[Tống Triết Tông|Triệu Dung]] (sau đổi thành Hú) làm thái tử. Mặc dù tân pháp do Tống Thần Tông ban bố tạm thời bị mẫu hậu là [[Cao Thao Thao|Cao thái hậu]] phế, song không lâu sau lại dần dần được khôi phục, trong đó không ít biện pháp vẫn duy trì đến thời kỳ Nam Tống{{RefTag|1={{chú thích sách|author=黃仁宇|title=《中國大歷史》〈第十一章 北宋:大膽的試驗〉|pages=第170頁}}}} Sau khi Tống Thần Tông băng hà, Cao thái hậu "thùy liêm thính chính", kiềm chế nghiêm khắc Tống Triết Tông Triệu Hú mới kế vị. Cao thái hậu tin dùng phái bảo thủ do Tư Mã Quang lãnh đạo, thờ ơ với Tống Triết Tông, kết quả dẫn đến phát sinh đối kháng nghiêm trọng giữa hai phe tân và cựu, đó là "Nguyên Hựu đảng tranh". Sau khi Tống Triết Tông thân chính, ông giáng chức thành viên cựu đảng, tin dùng tân đảng, sự nghiệp biến pháp do vậy có thể kế tục{{RefTag|1={{chú thích sách|author=王明蓀|title=《中國通史 宋遼金元史》〈第二章 北宋的外患-遼與夏〉|pages=第52頁}}}}.
 
Từ năm 1075-1077 đã xảy ra chiến tranh giữa nhà Tống với vương quốc [[Đại Việt]] của [[nhà Lý]]. Giai đoạn đầu, tướng nhà Lý là Lý Thường Kiệt đã chủ động đánh sang đất Tống trong chiến dịch 1075-1076. Trong cả ba trận đánh với quân Lý trên lãnh thổ Trung Quốc tại Khâm Châu, Liêm Châu và Ung Châu, quân Tống đều đại bại ([[Lý Thường Kiệt]] còn ra lệnh tàn sát hơn 5 vạn dân trong thành Ung Châu). Trong giai đoạn hai của cuộc chiến, quân Lý rút về phòng thủ chống lại cuộc nam tiến của đại quân Tống trong năm 1076-1077 và cuối cùng đẩy lui được quân Tống ra khỏi lãnh thổ Đại Việt.
 
=== Sự biến Tĩnh Khang ===