Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đại học Tây Úc”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 24:
 
UWA được thành lập năm 1911 từ một nghị quyết của [[Nghị viện bang Tây Úc]], và bắt đầu đi vào giảng dạy hai năm sau đó.<ref>{{cite web |url=http://calendar.publishing.uwa.edu.au/latest/partb/uwaact |title=University of Western Australia Act 1911 |publisher=governance.uwa.edu.au |date=2008-03-12 |accessdate=2011-01-22 |archive-url=https://archive.is/20120709032923/http://calendar.publishing.uwa.edu.au/latest/partb/uwaact# |archive-date=9 July 2012 |dead-url=no |df=dmy-all }}</ref> Đây là ngôi trường lâu đời thứ sáu tại Úc, và từng lại đại học duy nhất của bang cho đến khi trường [[Đại học Murdoch]] được thành lập năm 1973. Nhờ tuổi đời và danh tiếng, UWA được xếp vào loại những ngôi trường "Sa thạch", một cách nói không chính thức của người Úc dành để chỉ các đại học đầu tiên của từng bang. Đại học Tây úc còn thuộc một số nhóm trường danh tiếng khác, bao gồm [[Nhóm 8 Đại học (Úc)|Nhóm G8]] và [[Mạng lưới đại học Matariki]]. Trong những năm gần đây, UWA thường nằm top 100 các trường đại học tốt nhất thế giới thế giới, nhưng đôi sít soát danh sách 100 tùy theo hệ thống tính điểm của các [[Bảng xếp hạng đại học]]
 
Các cựu sinh viên của UWA bao gồm một [[thủ tướng|thủ tướng Úc]] ([[Bob Hawke]]), năm thẩm phán liên bang tối cao Úc (bao gồm một chánh án, Robert French, hiện đang là hiệu trưởng của trường), một thống đốc Ngân hàng Dự trữ liên bang (H. C. Coombs), various federal cabinet ministers, and seven of Western Australia's eight most recent premiers. In 2018 alumnus mathematician Akshay Venkatesh was a recipient of the Fields Medal. In 2014, the university produced its 100th Rhodes Scholar.[3] Two members of the UWA faculty, Barry Marshall and Robin Warren, won Nobel Prizes as a result of research at the university.