Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Dục Đức”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 46:
'''Dục Đức''' ([[chữ Hán]]: 育德 [[23 tháng 2]] năm [[1852]] – [[6 tháng 10]] năm [[1883]]), tên thật là '''Nguyễn Phúc Ưng Ái''', sau đổi thành '''Nguyễn Phúc Ưng Chân''' (阮福膺禛), là vị [[hoàng đế]] thứ năm của triều đại [[nhà Nguyễn]]. Ông lên ngôi vua ngày [[19 tháng 7]] năm [[1883]]<ref name="BT">Theo website ''Trung tâm bảo tồn di tích Cố đô Huế'' [http://www.hueworldheritage.org.vn/?catid=109&id=216]. Có nguồn ghi là ngày [[20 tháng 7]].</ref> nhưng tại vị chỉ được ba ngày, ngắn nhất trong số 13 vị hoàng đế của [[nhà Nguyễn|triều Nguyễn]],<ref>[[Trần Trọng Kim]], sách đã dẫn, trang 533.</ref><ref>Nguyễn Khắc Thuần, sách đã dẫn, trang 96.</ref><ref>''[[Đại Nam thực lục|Đại Nam chính biên liệt truyện]]'' (quyển 4), thì vua Dục Đức "nối ngôi mới được 5 ngày" (Nhà Xuất bản Văn học, 2004, bản dịch: trang 86).</ref> được truy tôn miếu hiệu là '''Nguyễn Cung Tông''' (阮恭宗).
 
== Thân thế và cuộc sống ban đầu ==
Dục Đức sinh ngày [[23 tháng 2]] năm [[1852]] tại [[Huế]]. Có nguồn ghi ông sinh [[4 tháng 1]] năm [[Quý Sửu]] (tức [[11 tháng 2]] năm [[1853]]).<ref name="NPT371">Nguyễn Phước tộc, sách đã dẫn, trang 371.</ref>. Ông là con thứ hai của Thoại Thái vương [[Nguyễn Phúc Hồng Y]]<ref>Tôn Thất Bình, sách đã dẫn, trang 114.</ref><ref>Nguyễn Khắc Thuần, sách đã dẫn, trang 94.</ref> (con trai thứ tư của vua [[Thiệu Trị]]) và bà [[Trần Thị Nga]], có tự là '''Ưng Ái''' (膺𩡤) ([[sử]] không lưu lại húy).
 
Năm [[1869]], khi được 17 tuổi, ông được bác ruột là vua [[Tự Đức]] chọn làm con nuôi (vì lúc nhỏ bị [[đậu mùa|bệnh đậu mùa]] nên vua Tự Đức không có con)<ref>Ngoài Nguyễn Phúc Ưng Chân (tức vua Dục Đức), vua Tự Đức còn nhânnhận nuôi hai người cháu nữa, đó là Nguyễn Phúc Ưng Kỷ (về sau là vua [[Đồng Khánh]]) và Nguyễn Phúc Ưng Đăng (còn gọi là Dưỡng Thiện, về sau là vua [[Kiến Phúc]]).</ref> và ban tên tự '''Ưng Chân''' (膺禛), đồng thời cho ra ở Dục Đức Đườngđường (育德堂) và giao cho Hoàng quý phi [[Vũ Thị Duyên]] trông nom dạy bảo. Năm [[1883]], ông được phong làm '''Thụy Quốc công''' (瑞國公).
Dục Đức sinh ngày [[23 tháng 2]] năm [[1852]] tại [[Huế]]. Có nguồn ghi ông sinh [[4 tháng 1]] năm [[Quý Sửu]] (tức [[11 tháng 2]] năm [[1853]]<ref name="NPT371">Nguyễn Phước tộc, sách đã dẫn, trang 371</ref>. Ông là con thứ hai của Thoại Thái vương [[Nguyễn Phúc Hồng Y]]<ref>Tôn Thất Bình, sách đã dẫn, trang 114</ref><ref>Nguyễn Khắc Thuần, sách đã dẫn, trang 94</ref> (con trai thứ tư của vua [[Thiệu Trị]]) và bà [[Trần Thị Nga]], có tự là '''Ưng Ái''' (膺𩡤) ([[sử]] không lưu lại húy).
 
Năm [[1869]], khi được 17 tuổi, ông được bác ruột là vua [[Tự Đức]] chọn làm con nuôi (vì lúc nhỏ bị [[đậu mùa|bệnh đậu mùa]] nên vua Tự Đức không có con)<ref>Ngoài Nguyễn Phúc Ưng Chân (tức vua Dục Đức), vua Tự Đức còn nhân nuôi hai người cháu nữa, đó là Nguyễn Phúc Ưng Kỷ (về sau là vua [[Đồng Khánh]]) và Nguyễn Phúc Ưng Đăng (còn gọi là Dưỡng Thiện, về sau là vua [[Kiến Phúc]]).</ref> và ban tên tự '''Ưng Chân''' (膺禛), đồng thời cho ra ở Dục Đức Đường (育德堂) và giao cho Hoàng quý phi [[Vũ Thị Duyên]] trông nom dạy bảo. Năm [[1883]], ông được phong làm '''Thụy Quốc công''' (瑞國公).
 
Sử sách còn nêu nguyên do ông phải đổi tên vì [[Nguyễn Phúc Hồng Y]] sinh ra ông, tên Ái không có bộ ''thị'', nên [[Tự Đức]] nhận ông làm con, đổi là Nguyễn Phúc Ưng Chân, tên này có bộ ''thị'' (xem thêm bài [[Đế hệ thi]]).
 
Trong thời gian này, ông có quan hệ chặt chẽ với người [[Pháp]], khi đó đang xâm lược [[Việt Nam]]. Năm [[1881]], vào thời điểm Pháp rục rịch tấn công miền bắc, ông từng cho chuyển nhiều tài liệu quan trọng về việc nước cho trúTrú sứ Pháp là Rheinart.<ref name="NPT371" />.
 
== Tại vị chỉ được ba ngày==