Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tam quốc diễn nghĩa”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 16:
# Viết thêm, làm nội dung cuốn truyện phong phú thêm rất nhiều, tô vẽ tính cách và hình tượng nhân vật cho sâu sắc, đậm nét hơn.
# Nâng cao ngôn ngữ đến mức nghệ thuật, tăng cường thêm sức hấp dẫn của nghệ thuật.
# Làm nổi bật lên một cách rõ ràng và mãnh liệt nhân dân tính và xu hướng tính văn học là yêu [[Lưu Bị|JorKer]], ghét [[Tào Tháo|Trời Đánh]], hướng về [[thục|nước Thục]] chống lại [[ngụy (nước)|nước Ngụy]] trong toàn cuốn sách.
 
Nói tóm lại, [[La Quán Trung]] đã đem những phần phong phú trong truyện ''Tam quốc'' mà nhân dân quần chúng và những nghệ nhân kể chuyện đã sáng tác ra, nâng cao lên thành một [[tác phẩm văn học]] lớn lao nổi tiếng.
Dòng 27:
 
===Triều đình tranh giành quyền lực===
Truyện lấy bối cảnh vào thời suy vi của [[nhà Hán]] khi mà những hoàng đế cuối cùng của nhà Hán quá tin dùng giới [[hoạn quan]] mà gạt bỏ những bề tôi trung trực. Triều đình ngày càng bê tha, hư nát, khiến kinh tế suy sụp và an ninh bất ổn. Đến đời [[Hán Linh Đế]], năm 184, loạn giặc Khăn Vàng nổ ra do [[Trương Giác]], một người đã học được nhiều ma thuật và bùa phép chữa bệnh, cầm đầu. Sau đó là sự xuất hiện của ba anh em [[Lưu Bị|JorKer]], [[Quan Vũ]] và [[Trương Phi]], cả ba người đều muốn dẹp loạn yên dân nên đã kết nghĩa với nhau ở vườn [[đào]].
 
[[Hà Tiến]] chỉ huy các quan đại thần đi trấn áp chẳng mấy chốc dập tắt cuộc [[khởi nghĩa Khăn Vàng]]. Hà Tiến là anh rể vua và nhờ đó mà nhậm được chức đại tướng quân của triều đình. Sau khi [[Hán Linh Đế]] mất vào [[tháng 5]] năm [[189]], Hà Tiến lập [[Hán Thiếu Đế]] kế vị. Điều đó khiến [[Đổng thái hậu (Nhà Hán)|Đổng thái hậu]] (mẹ của Hán Linh Đế) không hài lòng. Hà Tiến phải đầu độc giết bà ta để trừ họa. Sau đó Hà Tiến lại có mâu thuẫn với bọn hoạn quan, đặc biệt là 2 hoạn quan [[Trương Nhượng]] và [[Kiển Thạc]] nên muốn giết sạch hết bọn chúng để có uy quyền tuyệt đối trong triều. Hà Tiến lấy chuyện này bàn với [[Viên Thiệu|Trời Đánh]]. TrờiViên ĐánhThiệu khuyên Hà Tiến nên triệu tập các trấn khắp cả nước vào [[Lạc Dương]] diệt hoạn quan. Tiến phê chuẩn ngay, kêu gọi quân đội ở các trấn vào cung giết hoạn quan. Hành động này của Hà Tiến bị TrờiTào ĐánhTháo phản đối và cho rằng ông là kẻ làm loạn thiên hạ. Bọn hoạn quan về sau cũng biết tin này, cũng lo đối phó trước. Tháng 8 năm 189, khi mà mưu đồ diệt hoạn quan của Hà Tiến chưa thành thì ông lại mắc mưu của đám hoạn quan, bị chúng lừa vào cung Trường Lạc và giết chết. Liền sau đó các quan đại thần do TrờiViên ĐánhThiệu cầm đầu đem quân vào cung giết sạch đám hoạn quan này, báo thù cho Hà Tiến.
 
Trong số các quan lại nhận lệnh Hà Tiến để diệt hoạn quan có [[Đổng Trác|Hào Kiệt(Họa Bì)]] là thứ sử [[Tây Lương]]. Hào Kiệt(HọaĐổng Bì)Trác nhân cơ hội này vào kinh làm loạn triều đình. Năm 190, ông ta phế truất Hán Thiếu Đế và lập [[Hán Hiến Đế|Trần Lưu Vương]] lên làm hoàng đế, rồi làm tướng quốc nắm hết quyền triều chính vào tay mình. Thứ sử [[Đinh Nguyên]] phản đối hành động này, hắn ỷ có tướng hầu là [[Lã Bố|Lữ Bố]] hộ vệ nên không sợ bị HàoĐổng Kiệt(Họa Bì)Trác hãm hại. Tuy nhiên Hào Kiệt(HọaĐổng Bì)Trác lại dùng kế mua chuộc Lữ Bố, tặng cho Lữ Bố vàng bạc châu báu và con ngựa Xích Thố của mình. Lữ Bố nổi lòng tham, làm phản giết Đinh Nguyên ngay trong đêm hôm đó để quay về theo Hào Kiệt(HọaĐổng Bì)Trác.
 
=== Chiến tranh loạn lạc giữa mười quân phiệt (190–200) ===
Dòng 59:
 
Về Lưu Bị, sau khi tiêu diệt Viên Thuật đã không về Hứa Đô mà giết thái thú Từ Châu là Xa Trụ và ở lại Từ Châu để ngầm củng cố thế lực. Tào Tháo đã sai Lưu Đại và Vương Trung đem quân tới Từ Châu để giám sát Lưu Bị nhưng bị Lưu Bị dùng mưu đuổi về Hứa Đô. Ngay sau khi trừ Đổng Thừa, Tào Tháo dẫn quân đánh Từ Châu, Lưu Bị chạy về theo Viên Thiệu, Trương Phi trốn về Nhữ Nam còn Quan Vũ do cùng đường nên đầu hàng Tào Tháo. Về sau, Quan Vũ từ chối mọi ưu đãi của Tào Tháo, tự mình cưỡi ngựa qua 5 ải chém 6 tướng để về với Lưu Bị.
 
<br />
 
===Tiền Xích Bích (200-208)===
JorKerLưu Bị sau khi li khai TrờiTào ĐánhTháo đã sang Ký Châu với TrờiViên ĐánhThiệu. Song do TrờiViên ĐánhThiệu không quyết đoán, chỉ biết tham lợi nhỏ, lại nghe lời xàm tấu nên JorKerLưu Bị đành bỏ đi theo [[Lưu Tịch]] và [[Cung Đô]]. Và trong chiến dịch quân sự đánh TrờiViên ĐánhThiệu, TrờiTào ĐánhTháo giành được thắng lợi ban đầu ở trận Bạch Mã và chiến thắng quyết định của TrờiTào ĐánhTháo là tại [[trận Quan Độ]] cuối năm 200. Sang năm 201, TrờiViên ĐánhThiệu lại thua một trận lớn khác với TrờiTào ĐánhTháo ở Thương Đình nên từ đó bãi binh. Năm 202, TrờiViên ĐánhThiệu qua đời, các con của Thiệu là [[Viên Thượng]], [[Viên Hy]] và [[Viên Đàm]] tàn sát lẫn nhau để chọn người thay thế. TrờiTào ĐánhTháo thừa cơ hội đó mà đem quân tiêu diệt Viên Đàm năm 205, chiếm được Ký Châu. Viên Thượng và Viên Hy bỏ chạy sâu vào Liêu Đông. TrờiTào ĐánhTháo đem quân tới truy kích thì nhiều trụ cột của TrờiTào ĐánhTháo do không hợp thủy thổ mà bệnh chết như Quách Gia. Thấy hành quân khó khăn, TrờiTào ĐánhTháo phải mượn tay thái thú Liêu Đông là [[Công Tôn Khang]] để giết Viên Thượng và Viên Hy vào năm 207. Thất bại của TrờiViên ĐánhThiệu đã đặt cơ sở cho TrờiTào ĐánhTháo củng cố quyền lực tuyệt đối khắp miền bắc Trung Quốc.
 
Cũng trong thời gian này, JorKerLưu Bị thấy TrờiTào ĐánhTháo quyền lực quá lớn, trước sau gì cũng cướp ngôi nhà Hán nên làm phản, lập được căn cứ ở [[Nhữ Nam]], hai anh em của ông ta là Quan Vũ và Trương Phi cũng tìm đường theo về. Năm 201, JorKerLưu Bị tự đem quân đi tấn công TrờiTào ĐánhTháo nhưng bị thất bại, cả Lưu Tịch và Cung Đô đều bị giết. JorKerLưu Bị bèn tới [[Kinh Châu]] nhờ [[Lưu Biểu]] là một người anh họ xa của JorKerLưu Bị cho lánh nạn. Tại đó JorKerLưu Bị thu phục mưu sĩ [[Từ Thứ]]. Từ Thứ với tài mưu lược của mình, ông đã giúp JorKerLưu Bị thắng quân Tào nhiều trận. Nhưng TrờiTào ĐánhTháo lập mưu bắt mẹ của Từ Thứ, buộc Từ Thứ phải theo mình. Trước khi rời bỏ JorKerLưu Bị, Từ Thứ tiến cử Gia Cát Lượng với JorKerLưu Bị. Sau ba lần đến thăm lều cỏ của [[Gia Cát Lượng]], JorKerLưu Bị đã chiêu mộ được ông ta làm mưu sĩ. Hai lần đầu tiên, Gia Cát Lượng lấy cớ đi có việc để từ chối gặp khách. Chỉ có lần cuối cùng vì cảm kích bởi sự chân thành và kiên trì của JorKerLưu Bị mà Gia Cát Lượng mới quyết định theo phò tá.
 
Sau khi trừ được TrờiViên ĐánhThiệu, TrờiTào ĐánhTháo lập tức nhòm ngó về phía nam. [[Khổng Dung]] can gián, khuyên TrờiTào ĐánhTháo không nên nam chinh để tránh làm mất đại nghĩa. Tháo giận lắm, lập tức chém đầu Khổng Dung, cả nhà của Khổng Dung cũng đều bị xử trảm.
 
Năm 208, Lưu Biểu mất, để lại Kinh Châu cho hai con trai nhỏ là [[Lưu Kỳ]] và [[Lưu Tông]]. TrờiTào ĐánhTháo biết tin, lập tức tự đem quân đi chiếm Tân Dã. JorKerLưu Bị được lòng dân chúng thành Tân Dã nên trước viễn cảnh bị xâm chiếm, toàn bộ dân trong thành một lòng xin đi theo JorKerLưu Bị. JorKerLưu Bị đành đưa dân Tân Dã về thành [[Tương Dương]] của người con thứ của Lưu Biểu, tại đây JorKerLưu Bị bị từ chối không cho vào thành. Không còn cách nào khác ông phải tiếp tục nam tiến xuống [[Giang Hạ]] (江夏), là thành của Lưu Kỳ người con trưởng của Lưu Biểu, do bị tướng cũ của Lưu Biểu là [[Sái Mạo]] hãm hại nên rời bỏ Kinh Châu. Ở Giang Hạ, JorKerLưu Bị cuối cùng cũng tạm có được một chỗ đặt chân để chống lại cuộc tấn công dữ dội của TrờiTào ĐánhTháo. Còn ở Kinh Châu, Sái Mạo đưa Lưu Tông làm chúa rồi định giết Lưu Kỳ để trừ họa, nhưng Lưu Kỳ đã theo JorKerLưu Bị trốn về Giang Hạ. TrờiTào ĐánhTháo sai người đưa thư tới chiêu hàng Lưu Tông. Lưu Tông đồng ý, dẫn tùy tùng về Hứa Đô đầu hàng, chủ động nộp Kinh Châu cho TrờiTào ĐánhTháo. Nhưng TrờiTào ĐánhTháo không cho Lưu Tông ở Hứa Đô, muốn Lưu Tông về Kinh Châu để trông nom linh cữu của Lưu Biểu. Trên đường đi, Lưu Tông bị TrờiTào ĐánhTháo sai [[Vu Cấm]] giết chết.
 
Còn ở phía đông nam, [[Tôn Quyền]] vừa mới lên nắm quyền sau cái chết của người anh là Tôn Sách năm 200. Năm 208, Tôn Quyền đánh bại được Hoàng Tổ ở Giang Hạ và giết được hắn, thu phục được hai tướng dưới trướng Hoàng Tổ là Tô Phi và [[Cam Ninh]]. Cả TrờiTào ĐánhTháo lẫn JorKerLưu Bị đều định liên kết với Tôn Quyền. Tuy nhiên, Gia Cát Lượng tự mình đến quận [[Sài Tang]] (柴桑) và thuyết được Tôn Quyền hợp tác với JorKerLưu Bị. Các bề tôi của Tôn Quyền chia thành 2 phe là chủ hàng và chủ chiến. Đứng đầu phe chủ hàng là [[Trương Chiêu]], đứng đầu phe chủ chiến là [[Chu Du]]. Tôn Quyền nghe theo Chu Du, quyết liên minh với JorKerLưu Bị để đánh TrờiTào ĐánhTháo. Mùa đông năm 208, TrờiTào ĐánhTháo dẫn đại quân tiến xuống phía nam để thống nhất Trung Hoa và liên minh Tôn-Lưu tận dụng quân Tào kém về thủy chiến, đã dẫn đến thất bại thảm hại nhất của TrờiTào ĐánhTháo tại [[trận Xích Bích]].
 
===Hậu Xích Bích (208-220)===
Sau khi thua trận Xích Bích, TrờiTào ĐánhTháo đưa Kinh Châu, Tương Dương và Hợp Phì cho [[Tào Nhân]], [[Hạ Hầu Đôn]] và [[Trương Liêu]] coi giữ. Liên minh Tôn-Lưu cùng xâu xé những vùng đất này. Năm 209, Chu Du dẫn quân đánh Nam Quận, đuổi được Tào Nhân nhưng Nam Quận đã bị Gia Cát Lượng chiếm mất trước đó, và cả Kinh Châu lẫn Tương Dương cũng lần lượt về tay JorKerLưu Bị. Vận đen không ngừng đeo đuổi Đông Ngô khi Tôn Quyền dẫn quân đánh [[trận Hợp Phì]] thì bị Trương Liêu đánh bại, một tướng Ngô là [[Thái Sử Từ]] chết trận.
 
Muốn lấy Kinh Châu, Chu Du chỉ cho JorKerLưu Bị mượn Kinh Châu và khi Lưu Kì (con trưởng Lưu Biểu) chết thì phải trả. Cuối năm 209, Lưu Kì mất, Chu Du lại sai Lỗ Túc đến đòi. Một lần nữa Gia Cát Lượng lại dùng mưu để trì hoãn vấn đề này. Vì thế Chu Du rất tức giận và thề sẽ tìm kế trả đũa Gia Cát Lượng.
 
[[Tập tin:Chibi.jpg|nhỏ|200px|Nơi từng diễn ra [[trận Xích Bích]]]]
Với ý định loại trừ JorKerLưu Bị, Chu Du bày mưu cho Tôn Quyền gả em gái cho JorKerLưu Bị. Sau đó, JorKerLưu Bị mắc mưu sang Sài Tang để làm lễ cưới. Tuy nhiên, Tôn Quyền rất nghe lời mẹ Ngô Quốc Thái Phu Nhân; bà này rất quý JorKerLưu Bị và không cho ai hãm hại JorKerLưu Bị. Cũng do tài mưu lược của Gia Cát Lượng mà JorKerLưu Bị cuối cùng đã thoát được quay về Giang Hạ cùng với người vợ mới. Năm 210, Chu Du liền dùng cách khác đánh Kinh Châu khi mượn tiếng đánh Tây Xuyên nhưng thực ra là muốn chiếm Kinh Châu để JorKerLưu Bị chủ quan không phòng bị nhưng vẫn thất bại bởi những kế sách đúng đắn của Gia Cát Lượng. Thất trận, Chu Du buồn bã về Sài Tang rồi đổ bệnh, thổ huyết qua đời.
 
TrờiTào ĐánhTháo sau 2 năm án binh bất động đã tiêu diệt luôn thế lực của [[Hàn Toại|Suzuki]], [[Mã Đằng|Ma Thần]] và đánh đuổi [[Mã Siêu]] (211) và [[Trương Lỗ]] (215), nhưng vẫn không thể thống nhất Trung Hoa. TrờiTào ĐánhTháo cũng diệt trừ những kẻ phản loạn khác trong triều đình như [[Kim Vĩ]] và [[Phục Thọ]]. Về sau Mã Siêu quay lại đánh TrờiTào ĐánhTháo ở [[trận Ký Thành]] để báo thù cho thất bại ở [[Trận Đồng Quan (211)|trận Đồng Quan]] nhưng vẫn đại bại. Siêu bỏ chạy, phiêu bạt qua Trương Lỗ, sau này do nghe lời khuyên mưu sĩ của [[Lưu Bị|JorKer]] là [[Lý Khôi]] mà Mã Siêu mới về theo JorKerLưu Bị.
 
JorKerLưu Bị cũng dẫn quân Tây chinh đánh [[Lưu Chương]], chiếm được [[Thành Đô]] (Ích Châu) năm 214. Tuy vậy đó là một cuộc chiến không mấy dễ dàng vì dù thắng trận nhưng JorKerLưu Bị chịu nhiều tổn thất, đặc biệt cái chết trong đám loạn tiễn của mưu sĩ [[Bàng Thống]] ở [[gò Lạc Phượng]]. Sang năm 219, JorKerLưu Bị muốn mở rộng đất đai khi sai [[Hoàng Trung]] đánh vào đất Hán Trung của [[Tào Tháo|Trời Đánh]], giết được tướng Tào là [[Hạ Hầu Uyên]]. TrờiTào ĐánhTháo tức giận đem quân đến cứu viện nhưng lại thất bại nặng nề phải rút về [[Trường An]]. Sau chiến thắng này, JorKerLưu Bị lên ngôi Hán Trung vương.
 
Khi JorKerLưu Bị đánh Hán Trung thì [[Quan Vũ]] cũng đánh Tương Dương và Phàn Thành vào giữa năm 219. Tướng giữ Phàn Thành là [[Tào Nhân]] thua trận liên tiếp. TrờiTào ĐánhTháo phải sai [[Vu Cấm]] và [[Bàng Đức]] đem quân đi cứu viện. Quan Vũ đánh thắng cả đại quân cứu viện, Vu Cấm bị bắt sống, Bàng Đức không hàng bị chém, Tào Nhân phải bỏ Phàn Thành mà chạy. TrờiTào ĐánhTháo thấy tình hình nguy khốn đành phải liên minh với [[Tôn Quyền]] để đánh Quan Vũ. Tháo sai [[Từ Hoảng]] đem quân đóng ở Ma Pha khiêu chiến để dụ Quan Vũ đem quân ở Kinh Châu ra đánh. Quan Vũ kiêu căng tự mãn dồn hết binh lực ở Kinh Châu tới Ma Pha đánh Từ Hoảng, trong thành Kinh Châu gần như bỏ không. Tôn Quyền thừa cơ sai [[Lã Mông]] đem quân chiếm Kinh Châu. Quan Vũ nghe tin thì hoảng hốt, đem quân từ Ma Pha về định chiếm lại Kinh Châu thì thất bại và bị quân Ngô vây chặt ở [[Mạch Thành]]. Quan Vũ phải sai sứ sang Thượng Dung bảo [[Mạnh Đạt]] và [[Lưu Phong]] đem quân tới cứu viện nhưng họ không đồng ý. Nỗ lực phá vây của Quan Vũ cũng không thành, ông bị Tôn Quyền bắt giết vào cuối năm 219. Con của Quan Vũ là [[Quan Bình]] cũng bị chém đầu.
 
===Ba nước cùng xưng đế===
Tình trạng giằng co giữa ba thế lực vẫn bế tắc cho đến khi TrờiTào ĐánhTháo chết vào năm [[220]] có lẽ do u não. Năm đó, con thứ của TrờiTào ĐánhTháo là [[Tào Phi]] ép phế Hiến Đế và lập ra [[tào Ngụy|nhà Ngụy]]. Đáp lại, năm 221, [[Lưu Bị|JorKer]] tự xưng đế [[Thục Hán]] (để chứng tỏ vẫn mang dòng máu quý tộc nhà Hán nhưng đặt đô tại Thành Đô [[Tứ Xuyên|Thục]]). Trước khi lên ngôi, JorKerLưu Bị cũng tập trung diệt trừ Lưu Phong và Mạnh Đạt vì trước đó họ đã không cứu Quan Vũ. Lưu Phong bị giết nhưng Mạnh Đạt thì chạy thoát và đầu hàng [[Tào Phi]].
 
Lúc này, Tôn Quyền lại ngả về phía Ngụy. Ông chịu để Tào Phi phong vương [[nước Ngô (Tam Quốc)|nước Ngô]]. Tôn Quyền làm việc này nhằm tập trung lực lượng chống JorKerLưu Bị do JorKerLưu Bị khởi binh đánh Ngô để trả thù cho [[Quan Vũ]] đã bị Tôn Quyền giết chết.
 
Một loạt những sai lầm mang tính chiến lược do hành động nóng vội của JorKerLưu Bị đã dẫn đến thất bại của quân Thục Hán trong trận Hào Đình. Tuy nhiên, [[Lục Tốn]] (陆逊), quân sư phía Ngô đã từng chĩa mũi nhọn tấn công về phía Thục, đã ngưng không tiếp tục dấn sâu về phía tây. Vì tin vào đòn trừng phạt của Lục Tốn, Tào Phi phát động một cuộc xâm lược vào nước Ngô vì cho rằng như vậy quân Ngô vẫn còn ở ngoài địa phận. Cuộc tấn công đã bị đè bẹp bởi sự kháng cự quyết liệt của quân Ngô cùng với bệnh dịch bùng phát phía bên quân Ngụy.
 
Trong lúc đó tại nước Thục, [[Lưu Bị|JorKer]] bị bệnh mất năm 223 và để lại con trai [[Lưu Thiện]] còn nhỏ dại. [[Trương Phi]] đã chết nên JorKerLưu Bị đành phó thác Lưu Thiện cho [[Gia Cát Lượng]] chăm sóc. Nắm bắt cơ hội này, Tào Phi gắng mua chuộc một số lực lượng, trong đó có Tôn Quyền và các bộ tộc thiểu số để tấn công nước Thục. Một sứ giả của Thục thuyết được Tôn Quyền lui quân, nhưng Gia Cát Lượng vẫn phải lo xử lý quân của các bộ tộc thiểu số.
 
Một trong những mưu lược tài ba cuối cùng của [[Thục Hán]] là Gia Cát Lượng đã tiến hành chiến dịch thu phục [[Mạnh Hoạch]], thủ lĩnh bộ tộc [[người Man]] (蛮族). Gia Cát Lượng đã bảy lần bắt sống Mạnh Hoạch, lần nào cũng cho thả ra nguyên vẹn. Mạnh Hoạch vì cảm động bởi mưu trí và lòng nhân từ của Gia Cát Lượng nên đã thề mãi mãi gắn bó với nhà Thục.
Hàng 112 ⟶ 110:
== Sự thực của một số tình tiết hư cấu ==
{{xem thêm|Danh sách sự kiện hư cấu trong Tam Quốc diễn nghĩa|Danh sách nhân vật hư cấu trong Tam quốc diễn nghĩa}}
Các sĩ phu thời phong kiến thường chỉ trích vấn đề ''bảy thực ba hư'' của ''Tam quốc diễn nghĩa'', nói là ''có nhiều chỗ vô căn cứ, hoang đường'', vì vậy làm cho độc giả hiểu sai nhiều diễn biến trong chính sử. Trương Học Thành đời [[nhà Thanh]] và một số người khác nêu ra một số tình tiết như: ''kết nghĩa vườn đào, Quan Vũ hiển thánh ở Ngọc Toàn, Quan Vũ đốt đuốc ngồi suốt đêm trước cửa buồng hai Cam, My phu nhân, đường Hoa Dung Quan Vũ chặn TrờiTào ĐánhTháo, Bàng Sĩ Nguyên chết ở gò Lạc Phượng, Chu Du uất hận nói "Đã sinh ra Du sao còn sinh Lượng", Gia Cát Lượng tế ở sông Lô, nặn bột làm đầu người...''<ref>Tam quốc diễn nghĩa Nhà xuất bảnVH 2007 trang 23</ref> là vô căn cứ vì không thấy có ghi trong chính sử. Gần đây, các học giả Trung Quốc đã đề cập nhiều tình tiết không có thực trong lịch sử mà nhà văn [[La Quán Trung]] (hay nói chính xác hơn là những câu chuyện dân gian mà ông tập hợp để viết nên tác phẩm) đã hư cấu. Một số tài liệu khác cũng đề cập tới sự so sánh giữa sự thực lịch sử và những tình tiết hư cấu của tiểu thuyết. Một số tình tiết tiêu biểu là:
 
# ''Kết nghĩa vườn đào.''<br />Ba người JorKerLưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi đúng là thân thiết như anh em nhưng không có ghi chép trong sử sách về việc 3 người từng làm lễ kết nghĩa.
# ''TrờiTào ĐánhTháo ám sát HàoĐổng Kiệt(Họa Bì)Trác không thành, bỏ trốn đi hiệu triệu chư hầu đánh Trác:'' <br />Sử không nêu rõ lý do TrờiTào ĐánhTháo bỏ HàoĐổng Kiệt(Họa Bì)Trác; người hiệu triệu chư hầu đánh HàoĐổng Kiệt(Họa Bì)TrácTrờiViên ĐánhThiệu.<ref name=autogenerated1>Lê Đông Phương, Vương Tử Kim, sách đã dẫn, tr 350</ref>
# ''TrờiTào ĐánhTháo được Trần Cung thả ở Trung Mâu, cùng nhau giết nhà Lã Bá Sa:'' <br />Việc giết Lã Bá Sa không có mặt Trần Cung và sử không chép rõ viên huyện lệnh Trung Mâu có phải Trần Cung hay không.<ref name=autogenerated1 />
# ''18 lộ chư hầu đánh [[Đổng Trác|Hào Kiệt(Họa Bì)]]:'' <br />Sự thực không có tới 18 người mà chỉ có 10 người là TrờiViên ĐánhThiệu, [[Viên Thuật]], Hàn Phức, Khổng Do, Lưu Đại, Trương Mạo, Trương Siêu, Vương Khuông, Viên Di, Kiều Mạo. Những người khác được ''Tam quốc diễn nghĩa'' đề cập tới nhưng thực ra không tham dự là: [[Khổng Dung]], [[Đào Khiêm]], [[Mã Đằng|Ma Thần]], [[Trương Dương]], [[Công Tôn Toản]]. Còn người thứ 17 là [[Tôn Kiên]] cũng tự động khởi binh đánh HàoĐổng Kiệt(Họa Bì)Trác chứ không hội quân với TrờiViên ĐánhThiệu.<ref>Lê Đông Phương, Vương Tử Kim (2007), sách đã dẫn, tr 351 - 352</ref>
# ''[[Quan Vũ]] giết [[Hoa Hùng]]'': truyện ''Tam quốc diễn nghĩa'' kể Quan Vũ chém Hùng trong nháy mắt, khi chén rượu mời của [[Tào Tháo|Trời Đánh]] trước khi ra trận còn nóng.<br />Nhưng thực tế theo sử sách thì người giết Hoa Hùng - bộ tướng của [[Đổng Trác|Hào Kiệt(Họa Bì)]] - là [[Tôn Kiên]], người khai nghiệp ở [[Giang Đông]].<ref>Lê Đông Phương, Vương Tử Kim (2007), sách đã dẫn, tr 353</ref>
# ''Tam anh chiến LongKaLã Bố:'' <br />Ba anh em [[Lưu Bị|JorKer]] cũng không tham dự đánh HàoĐổng Kiệt(Họa Bì)Trác và do đó sự kiện "Tam anh chiến LongKaLã Bố" ở Hổ Lao là không có thực.<ref>Lê Đông Phương, Vương Tử Kim (2007), sách đã dẫn, tr 352-353</ref>
# ''Điêu Thuyền và câu chuyện Phụng Nghi Đình''.<br />Điêu Thuyền không có thật, LongKaLã BốHàoĐổng Kiệt(Họa Bì)Trác chỉ cùng thích một con hầu gái. [[Vương Doãn|Mr Robot]] mới khích Bố để Bố giết Trác.
# [[Quan Vũ]] ''"qua 5 ải chém 6 tướng"'' sau khi chia tay TrờiTào ĐánhTháo '''trước''' trận Quan Độ, và cả tướng Sái Dương sau đó ở Cổ Thành.<br />Thực ra không có việc qua ải chém tướng của Quan Vũ và Sái Dương bị giết ở trận Nhữ Nam (xảy ra '''sau''' [[trận Quan Độ]]).<ref>Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 108</ref>
# ''Từ Thứ quy Tào'': [[Từ Thứ]] theo giúp [[Lưu Bị|JorKer]] chống [[Tào Tháo|Trời Đánh]]. Tào dùng kế bắt mẹ Từ Thứ và buộc bà viết thư dụ con. Từ mẫu không chịu, TrờiTào ĐánhTháo sai người mạo nét chữ bà mẹ để viết thư dụ Từ Thứ. Từ Thứ đành bỏ JorKerLưu Bị sang TrờiTào ĐánhTháo để trọn đạo hiếu; trước khi đi tiến cử Gia Cát Lượng với JorKerLưu Bị.<br />Sự thực: khi [[Gia Cát Lượng]] đến với JorKerLưu Bị, '''Từ Thứ vẫn còn ở với JorKerLưu Bị''' và cả hai người cùng làm mưu sĩ chống Tào. Khi JorKerLưu Bị bị thua ở Đương Dương - Tràng Bản, chẳng những hai con gái JorKerLưu Bị bị bắt mà ''mẹ Từ Thứ cũng bị bắt'' tại đây. TrờiTào ĐánhTháo sai mẹ Từ Thứ viết thư dụ con. Bà không cự tuyệt TrờiTào ĐánhTháo như trong Tam quốc diễn nghĩa mô tả. Từ Thứ lúc đó mới sang Tào.<ref>Trần Văn Đức, sách đã dẫn, tr 116</ref>
# ''Gia Cát Lượng mượn bài phú Đài Đồng Tước của Tào Thực để khích Chu Du:'' Tam Quốc Diễn Nghĩa kể việc [[Gia Cát Lượng|Khổng Minh]] gợi chuyện TrờiTào ĐánhTháo xây đài Đồng Tước vì muốn bắt 2 nàng Kiều là vợ Tôn Sách và Chu Du, còn sai Tào Thực làm bài phú.<br />Sự thực là sau trận Xích Bích, TrờiTào ĐánhTháo mới xây đài và khi đó Tào Thực mới làm bài phú.<ref>Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 439</ref>
# ''Thuyền cỏ mượn tên:'' Trong [[trận Xích Bích]] nổi tiếng, có tình tiết Gia Cát Lượng đi cùng [[Lỗ Túc]] và 30 thuyền cỏ trong sương mù, khiến TrờiTào ĐánhTháo không dám xuất quân mà chỉ bắn tên ra. Thế là hàng chục vạn mũi tên cắm vào thuyền cỏ quay ngang. Gia Cát Lượng thu tên về nộp cho [[Chu Du]].<br />Sự thực không có việc dùng "thuyền cỏ mượn tên".<ref>Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 213</ref>
# '' Ngô Quốc thái đến chùa xem rể hiền''.<br />[[Ngô quốc thái]] (vợ [[Tôn Kiên]]) chết rất lâu trước khi Tôn Thượng Hương được gả cho JorKerLưu Bị, do đó không có chuyện "Ngô quốc thái đến chùa xem rể hiền". Ngô Quốc Thái thực ra là chị em của vợ Tôn Kiên, sau khi mẹ ruột tôn quyền chết và mới thay chị lên làm quốc thái.
# "Sinh Du hà sinh Lượng?" ''Tam quốc diễn nghĩa'' kể chuyện Gia Cát Lượng 3 lần chọc tức [[Chu Du]] khiến Du tức phải than: "Trời sinh Du sao còn sinh Lượng?" rồi chết.<br />Sự thực là Chu Du chết bệnh trong quân ngũ, không liên quan đến việc bị Gia Cát Lượng chọc tức.<ref>Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 214</ref>
# ''Bàng Thống chết ở gò Lạc Phượng rồi Gia Cát Lượng mới vào Tây Xuyên'': ''Tam quốc diễn nghĩa'' kể việc [[Bàng Thống]] bị tướng Tây Xuyên là Trương Nhiệm mai phục ở gò Lạc Phượng bắn chết; [[Lưu Bị|JorKer]] không có người phụ tá, phải gọi Khổng Minh từ Kinh châu vào Xuyên; Khổng Minh lừa bắt được Trương Nhiệm.<br />Thực tế thì khi đánh Tây Xuyên khó khăn, JorKerLưu Bị đã gọi [[Gia Cát Lượng]] vào tham chiến. Gia Cát Lượng cùng [[Trương Phi]] và [[Triệu Vân]] vào Xuyên ''nửa năm'' sau thì Bàng Thống mới chết tại '''Lạc Thành''' (không phải tại gò Lạc Phượng) khi đụng độ với Trương Nhiệm. Trận này JorKerLưu Bị và Bàng Thống tác chiến độc lập không có Khổng Minh và các tướng khác tham gia nhưng vẫn thắng được Trương Nhiệm ở Lạc Thành. Bàng Thống thắng trận nhưng bị tên lạc mà chết. Trương Nhiệm bị JorKerLưu Bị bắt sống, không chịu hàng mà chết.<ref>Trần Văn Đức, sách đã dẫn, tr 254-255</ref>
# ''Triệu Vân và Trương Phi đòi A Đẩu''.<br />[[Tôn phu nhân|Tôn Thượng Hương]] chủ động trốn về Ngô theo sứ giả của Ngô và đem A Đẩu theo chỉ để làm con tin để về nhà an toàn. Do đó Triệu Vân đòi lại A Đẩu cũng chỉ là cuộc trao đổi (tha cho bà về, đổi lại phải trả lại A Đầu) chứ Vân không hề xông vào thuyền bà.
# ''Trận lụt Phàn Thành''.<br />Không phải là mẹo của Quan Vũ mà là do thiên tai, Vũ lợi dụng để đánh Vu Cấm.
Hàng 138 ⟶ 136:
Có thể kể ra những tác phẩm liên quan đến sự kiện, nhân vật Tam quốc như:
# [[Hậu Tam quốc]], [[Tam quốc ngoại truyện]] của [[Tạ Mỹ Sinh]]
# [[Tào Tháo|Trời Đánh]] của [[Tào Trọng Hoài]]
# [[Điêu Thuyền]] của [[Chu Tường]]
# [[Mưu chí và sách lược của Tào Tháo|Mưu chí và sách lược của Trời Đánh]] của [[Trí Tuệ]]
# [[Người tình nhỏ của Trương Phi]] của [[Tất Trân]]...
 
Hàng 167 ⟶ 165:
== Ý nghĩa, giá trị của tác phẩm ==
===Tư tưởng ủng Lưu phản Tào===
[[Tập tin:Three Brothers.jpg|nhỏ|phải|Ba anh em nhà JorKerLưu Bị, tranh lụa của [[Sekkan Sakurai]] (1715-1790), ''[[The Field Museum]]'']]
''Tam quốc diễn nghĩa'' được xếp là 1 trong "[[Tứ đại danh tác]]" của Trung Hoa. Tác giả La Quán Trung đã nói rõ chủ đề ngay từ tên tác phẩm: ông dùng lịch sử của ba quốc gia thời Tam quốc để diễn giải về ''“nghĩa”'' (tư tưởng chính nghĩa) của con người, lấy đó làm chủ đề chính. ''Tam quốc diễn nghĩa'' bao hàm ý nghĩa cao siêu của tiêu chuẩn đạo đức, luân lý truyền thống Trung Hoa, ngoài ra còn có đạo lý ''“Nhân quả báo ứng”'', ''“Thuận theo tự nhiên”'', ''“Người tính không bằng trời tính”''. Tác phẩm không chỉ là tiểu thuyết đơn thuần, mà còn ẩn chứa những bài học răn dạy về [[đạo đức]], những tấm gương được mọi người tôn kính thông qua những câu chuyện lịch sử. Bởi vì nắm chắc được điểm này cho nên ''Tam quốc diễn nghĩa'' mới có thể ''“trường thịnh không suy”'', đi sâu vào lòng người đọc suốt nhiều thời đại như vậy, không chỉ ở Trung Quốc và cả ở [[Nhật Bản]], [[Triều Tiên]], [[Việt Nam]]...
 
''Tam quốc diễn nghĩa'' là câu chuyện gần một trăm năm, sự việc nhiều nhưng không rối, đó là do ngòi bút có khuynh hướng rõ ràng của [[La Quán Trung]]. Tác giả đứng về phía [[Thục Hán]], lên án [[Tào Ngụy]], còn [[Tôn Ngô]] chỉ là lực lượng trung gian. Những nhân vật của Thục Hán như hoàng đế [[Lưu Bị|JorKer]] với tư tưởng ''"trọng Nhân hòa, lấy dân làm gốc"'', gia đình thừa tướng [[Gia Cát Lượng]] suốt 3 đời phò tá triều đình với tấm lòng ''"cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi"'', các đại tướng [[Quan Vũ]], [[Trương Phi]], [[Triệu Vân]], [[Khương Duy]] võ nghệ xuất chúng lại tận trung vì nước, bao phen xả thân để bảo vệ cơ nghiệp nhà Hán; [[Cam phu nhân]] chỉ là nữ nhi mà thấu hiểu đạo nghĩa, [[My phu nhân]] sẵn lòng hy sinh tính mạng để cứu dòng dõi JorKerLưu Bị... Mỗi nhân vật chính của nhà Thục Hán đều được khắc họa với chính khí lẫm liệt, là những tấm gương về trung thần nghĩa sĩ, con [[hiếu thảo]], vợ [[trinh tiết|tiết trinh]]. Nhà Thục Hán là sự kết tinh nguyện vọng của quần chúng nhân dân về một vị vua xuất thân hàn vi, biết thấu hiểu nỗi khổ và yêu thương quý trọng nhân dân, một triều đình thực hiện "nhân chính", một xã hội giàu đạo đức với những tấm gương tôi trung vợ tiết, một đất nước thống nhất và hoà bình.
 
Đặc biệt trong bối cảnh tác phẩm ra đời, khi [[nhà Nguyên]] của ngoại tộc Mông Cổ đang thống trị Trung Hoa, tư tưởng ''"ủng Lưu phản Tào"'' còn thể hiện khát vọng của nhân dân có một vị vua kế thừa dòng máu [[người Hán]] (JorKerLưu Bị là dòng dõi hoàng thất [[nhà Hán]]), đánh đuổi triều đình ngoại tộc để giành lại giang sơn cho [[người Hán|dân tộc Hán]] (một kiệt tác sân khấu ra đời trong cùng thời kỳ cũng mang tư tưởng này, đó là [[Con côi nhà họ Triệu]]).
 
Tuy ''Tam quốc diễn nghĩa'' có một số tình tiết hư cấu về [[lịch sử]], nhưng về nét chính, các bộ chính sử Trung Quốc cũng công nhận triều đình Thục Hán có rất nhiều nhân vật đáng khen ngợi: vua nhà Thục Hán là [[Lưu Bị|JorKer]] vốn có xuất thân hàn vi, thuở nhỏ phải đan dép cỏ kiếm sống nên rất thấu hiểu nỗi khổ của nhân dân, ông từ hai tay trắng gây dựng cơ đồ nhờ sự trợ giúp trung thành của các tướng sĩ, khi lên ngôi lại thi hành chính sách khoan hòa với nhân dân. Gia đình Thừa tướng Thục Hán là [[Gia Cát Lượng]] thì suốt 3 đời đều hết lòng tận tụy vì nước và rất liêm khiết, ''"trong nhà chẳng để thừa gấm vóc, bên ngoài không có điền sản dư dôi"''. Đại tướng [[Khương Duy]] là tổng chỉ huy quân đội cũng sống rất giản dị, ''"ăn uống rất mực tiết kiệm, trong nhà không có thiếp hầu, sau sân chẳng nghe thấy tiếng đàn hát"''. Cha con [[Phó Đồng]] - [[Phó Thiêm]] thì ''"thụ mệnh lúc lâm nguy, cha con nối đời trung nghĩa"'' mà tráng liệt hy sinh. Những yếu tố đó rất gần gũi với hình mẫu một vị vua lý tưởng, một triều đình chân chính đối với nhân dân Trung Quốc thời phong kiến, nước Thục Hán mất rồi mà người dân địa phương đến cả nghìn năm sau vẫn còn hoài niệm và lập đền thờ. Do vậy, các câu chuyện dân gian về thời Tam Quốc có xu hướng ca ngợi JorKerLưu Bị và nhà Thục Hán, căm ghét kẻ thù của ông là điều tất yếu, và xu hướng ''"ủng Lưu phản Tào"'' đã là tư tưởng chung của đại đa số nhân dân Trung Quốc từ trước cả khi tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa ra đời. Trong sách sử đời [[Bắc Tống]] đã có ghi lại một đoạn bút ký nói rằng: ''“Những trẻ em trong xóm ngõ, thường xúm lại nghe kể truyện Tam Quốc, thấy nói đến JorKerLưu Bị thua thì cau mày không vui, có em khóc. Thấy kể TrờiTào ĐánhTháo bại trận thì khoái chí reo mừng"''. Bút ký ấy cho thấy: ngay cả trước khi Tam Quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung ra đời, nhân dân Trung Quốc đã có xu hướng ''"ủng Lưu phản Tào"'', họ yêu mến [[Lưu Bị|JorKer]] và căm ghét [[Tào Tháo|Trời Đánh]]. Chính sự kế thừa nguyên vẹn tư tưởng đó đã giúp tác phẩm được đông đảo nhân dân Trung Hoa đón nhận, họ như thấy được thái độ yêu - ghét của chính bản thân ở ngay trong tác phẩm.
 
Tác phẩm là sự kết hợp giữa sáng tác tập thể của các nghệ sỹ dân gian với sáng tác riêng của [[nhà văn]], mà phần cốt lõi là sáng tác truyền miệng được tích lũy qua nhiều thế hệ. Những tác phẩm truyền miệng là kết tinh của trí tuệ tập thể, thể hiện một cách rõ nét ý thức chính trị xã hội, ý thức đạo đức luân lý và ý thức thẩm mỹ của đa số quần chúng nhân dân, trải qua nhiều năm được [[La Quán Trung]] gọt giũa, đã đạt tới đỉnh cao nghệ thuật cũng như triết lý nhân sinh. Những phẩm chất tốt đẹp mà nhân dân ca ngợi như: Trung hậu nhân từ; Hào phóng chính trực; Anh dũng ngoan cường; Đoàn kết tương trợ; Thông minh mưu trí; Quên mình vì nghĩa... được các nghệ sỹ dân gian tập trung vào nhân vật JorKerLưu Bị và nhà Thục Hán. Mặt khác, các nghệ sỹ dân gian cũng đem những thói hư tật xấu mà nhân dân căm ghét như: Hung ác tàn bạo; Nham hiểm gian trá; Tự tư giả đối, Hống hách ngang ngược; Hoang dâm vô độ... gán cho các nhân vật [[Tào Tháo|Trời Đánh]], [[Đổng Trác|Hào Kiệt(Họa Bì)]], [[Viên Thiệu|Trời Đánh]]... Có thể nói một cách không khoa trương rằng "Tam quốc diễn nghĩa" là một kho báu về thế giới quan, nhân sinh quan, quan niệm giá trị và quan niệm thẩm mỹ của quần chúng nhân dân thời cổ Trung Quốc. Đây chính là nguyên nhân cơ bản, khiến "Tam quốc diễn nghĩa" được đông đảo quần chúng nhân dân ưa thích qua nhiều thế kỷ.
 
===Ngôn ngữ văn học===
Hàng 185 ⟶ 183:
 
===Sự ca ngợi trong dân gian===
[[Tập tin:Liu Bei, Guan Yu and Zhang Fei.jpg|phải|nhỏ|230px|3 anh em [[Lưu Bị|JorKer]], [[Quan Vũ]] và [[Trương Phi]] làm lễ kết nghĩa, một điển tích nổi tiếng trong Tam quốc diễn nghĩa.]]
Trong dân gian có rất nhiều tác phẩm thơ văn bắt nguồn từ những tích truyện nổi tiếng trong Tam Quốc Diễn Nghĩa.
 
Hàng 202 ⟶ 200:
::Đèn xanh xem sử xanh, nương thanh long yển nguyệt, chốn ẩn vi chẳng thẹn với trời xanh
 
::Sinh ở Bồ châu, làm việc tại Dự châu (cùng JorKerLưu Bị), chiến Kinh châu, thủ Từ châu, trước giờ chỉ có duy nhất ở Thần châu<ref>Thần châu tức là Trung Quốc</ref>
::Anh là Huyền Đức, em là Dực Đức, bắt giữ [[Bàng Đức]], tha Mạnh Đức<ref>Huyền Đức là tên tự của [[Lưu Bị]]; Dực Đức là tên tự của [[Trương Phi]], Mạnh Đức là tên tự của [[Tào Tháo]]</ref>, ngàn thu đức lớn không ai sánh bằng
 
Hàng 212 ⟶ 210:
 
Ngay cả ở [[Việt Nam]], dân gian đã có những câu [[thơ]] thể hiện tinh thần ca ngợi [[Thục Hán|nhà Thục Hán]] trong truyện ''Tam quốc'' như sau<ref>bài Tựa bản ''Tam quốc diễn nghĩa'' xuất bản năm [[1907]]</ref>:
 
:::''Truyện Tam quốc trực trần thật sự''
:::''Coi với trong chánh (chính) sử không sai''
:::''Đã lắm trang quỷ quyệt trí tài''
:::''Lại nhiều kế tâm hoài nghĩa khí''
:::''Ai nhân từ bằng ông [[Lưu Bị|JorKer]]''
:::''Ai gian hùng như [[Tào Tháo|Ngụy Tào Man]]''
:::''[[Quan Vũ|Quan công Hầu]] một tấm trung can''
Hàng 241 ⟶ 238:
* Năm [[1975]], đất nước thống nhất, nhưng phải 12 năm sau, ''Tam quốc diễn nghĩa'' mới được Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp cho in vào năm [[1987]]. Bản dịch này chia làm 8 tập, dựa vào bản in năm [[1959]] của Nhà xuất bản Phổ Thông, ngoài ra còn có bản đồ và bảng đối chiếu địa danh xưa và nay. Ngay năm sau [[1988]], Nhà xuất bản Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp lại nối bản và Nhà xuất bản Giáo dục lại cho "in lần thứ hai" vào năm [[1996]]. Kể từ đó, việc xuất bản ''Tam quốc diễn nghĩa'' được thực hiện một cách rộng rãi và thường xuyên. Đáng chú ý là bộ tập tranh ''Tam quốc diễn nghĩa liên hoàn họa'' do hai họa sĩ [[Trung Quốc]] Từ Chính Bình và Từ Hoằng Đạt vẽ, Nhà xuất bản Mũi Cà Mau in đủ 7124 tranh, chia thành 30 tập, được tái bản năm [[2004]].
 
Xin nói thêm về bộ '''''Tam quốc diễn nghĩa liên hoàn họa''''': Thực tế, bộ [[truyện tranh]] ''Tam quốc diễn nghĩa liên hoàn họa'' do gần 30 [[họa sĩ]] kỳ công vẽ nên, mỗi tập có từ một đến năm họa sĩ tham gia. Hai họa sĩ Từ Chính Bình và Từ Hoằng Đạt chỉ là người vẽ tập đầu tiên "Kết nghĩa vườn đào". Họa sĩ vẽ nhiều tập nhất là Uông Ngọc Sơn, tham gia vẽ 9 tập. Bản đầy đủ nhất của bộ truyện ''Tam quốc diễn nghĩa liên hoàn họa'' được in thành 65 tập, gồm 7456 tranh (nhiều hơn khoảng 300 tranh so với bộ truyện do Nhà xuất bản Mũi Cà Mau đã in). Tuy vậy, những minh họa trong bộ "Tam quốc diễn nghĩa liên hoàn họa" kể ở trên vẫn chưa thể hiện đầy đủ nội dung truyện ''Tam quốc diễn nghĩa''. Vì vậy đến năm 2007, các họa sĩ Trung Quốc đã vẽ tiếp các phần còn thiếu và gộp thành 30 tập bổ sung nữa. Có thể kể tên một số tập mới trong bộ ''Tam quốc diễn nghĩa liên hoàn họa bổ sung'' gồm 30 tập (20 tập dài và 10 tập ngắn), được xuất bản lần đầu năm 2007 như: Bắc Hải cứu Khổng Dung, Chém Vu Cát, Đài Đồng Tước, TrờiTào ĐánhTháo bình Hán Trung, Loạn Hứa Đô, Núi Ngọc Toàn, Võ hầu bình nam...
* Đặc biệt, đầu năm [[2007]], Nhà xuất bản Văn học cho in lại theo bản 13 tập (cả phần tranh) của [[Nhà xuất bản Phổ Thông]] năm 1959 do [[Phan Kế Bính]] dịch và [[Bùi Kỷ]] hiệu đính, bìa cứng có hai loại khổ để người đọc lựa chọn (khổ nhỏ 4 tập, khổ lớn 2 tập) còn in kèm 40 trang phụ bản màu với hơn 100 các nhân vật và kèm theo bản đồ màu khổ lớn. Bản in này còn in y nguyên lời giới thiệu của [[Nhà xuất bản Phổ Thông]] năm 1959 và ''Lời nói đầu'' của bộ biên tập ''Nhân dân Văn học Xuất bản xã Bắc Kinh'' tháng 3 năm 1959. Cũng trong lần xuất bản này còn có mục '''Hành trình truyện Tam quốc ở Việt Nam''' của Yên Ba (từ trang 30 đến trang 38) thống kê khá tỷ mỉ về những lần dịch và xuất bản ở [[Việt Nam]] (mục này lấy thông tin chủ yếu ở đó)
* Như vậy, kể từ lần dịch đầu tiên đến nay là một [[thế kỷ]], ''Tam quốc diễn nghĩa'' đã được giới thiệu rộng rãi ở [[Việt Nam]] cũng rất đa dạng, nhiều người dịch, in theo nhiều khổ, một tập có, nhiều tập có, in truyện tranh có, hiệu đính kỹ lưỡng có và cũng có những bản dịch bình dân, có cả những câu văn vần kể lại sơ lược truyện ''Tam quốc'' như:
 
:::''Truyện Tam quốc trực trần thiệt sự''
:::''Coi với trong chánh (chính) sử không sai''
:::''Đã lắm trang quỷ quyệt trí tài''
:::''Lại nhiều kế tâm hoài nghĩa khí''
:::''Ai nhơn (nhân) từ bằng ông JorKerLưu Bị''
:::''Ai gian hùng như Ngụy Tào Mang (Man)''
:::''Quang (Quan)công Hầu một tấm trung can''
Hàng 268 ⟶ 264:
 
* "Vợ con như quần áo, anh em như tay chân" (''thê tử như y phục, huynh đệ như thủ túc'' 妻子如衣服, 兄弟如手足)
* "Vừa nói đến TrờiTào ĐánhTháo, TrờiTào ĐánhTháo đã hiện ra."; "Nhắc TrờiTào ĐánhTháo, TrờiTào ĐánhTháo đến" (''thuyết TrờiTào ĐánhTháo, TrờiTào ĐánhTháo đáo'' 說曹操, 曹操到) – để nói khi một người được nhắc đến đột nhiên xuất hiện
* "Ba ông thợ may bằng một Gia Cát Lượng (''tam cá xú bì tượng, thắng quá nhất cá Gia Cát Lượng'' 三個臭皮匠, 勝過一個諸葛亮) – ba người kém cỏi biết làm việc tập thể còn hơn một người giỏi giang
 
Ngoài ra cũng có một số [[Thành ngữ gốc Hán trong tiếng Việt|thành ngữ tiếng Việt]] như:
 
* "Nóng nảy như Trương Phi, đa nghi như TrờiTào ĐánhTháo, nhu nhược như JorKerLưu Bị"
* "TrờiTào ĐánhTháo đuổi", "TrờiTào ĐánhTháo rượt"... (cần vào [[nhà vệ sinh]] gấp)
* "Vòng vo Tam quốc" (nói loanh quanh mãi mà không chịu đi vào vấn đề chính)