Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thẩm Uyên Tử”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
Thẩm Uyên Tử (chữ Hán: 沈渊子, 381 – 415), tự Kính Thâm, người Vũ Khang, tướng lĩnh nhà Đông Tấn.
 
==CuộcXuất đờithân==
Ông nội là Cảnh, xuất thân sĩ tộc, gia cảnh giàu có, tài sản lên đến ngàn vàng. Cảnh chuyên cần học tập, làu thông [[Tả truyện|Tả thị xuân thu]], trước có [[Tạ An]], sau có [[Vương Cung]] đều hết sức mời ông ra làm quan. Cảnh cũng là tín đồ của Ngũ Đấu Mễ Đạo, phụng sự các đời giáo chủ [[Đỗ Tử Cung]], [[Tôn Thái]], [[Tôn Ân]] rất thành kính.
Cha là Thẩm Mục Phu, các em trai là Vân Tử, [[Thẩm Điền Tử|Điền Tử]], [[Thẩm Lâm Tử|Lâm Tử]]. Con là Thẩm Chánh.
 
Năm Long An thứ 3 ([[399]]), [[Khởi nghĩa Tôn Ân|Tôn Ân khởi nghĩa]]. Cha của Uyên Tử là [[Thẩm Mục Phu]], khi ấy đang ở Hội Kê, được Tôn Ân dùng làm Tiền bộ tham quân, Chấn vũ tướng quân, Dư Diêu lệnh. Ngày 28/12 năm ấy, Tôn Ân bị [[Lưu Lao Chi]] đánh bại, Mục Phu bị Phụ quốc tướng quân [[Cao Tố]] bắt giết, đầu đưa về Kinh Ấp. Cảnh biết tin Mục Phu tham gia phản quân, chưa kịp bỏ trốn, thì bị Thẩm Dự - người họ hàng, vốn làm người vô sĩ nên bị Cảnh ghét - tố giác. Cảnh cùng các em trai của Mục Phu là Trọng Phu, Nhâm Phu, Dự Phu, Bội Phu đều bị hại, chỉ có Uyển Tử và các em trai là Vân Tử, [[Thẩm Điền Tử|Điền Tử]], [[Thẩm Lâm Tử|Lâm Tử]], Kiền Tử thoát nạn.
 
Con là Thẩm Chánh.
 
==Cuộc đời==
Uyên Tử theo [[Lưu Dụ]] chiếm được Kinh thành, phong tước Phồn Trĩ huyện ngũ đẳng hầu. Ông lần lượt làm Tham Trấn quân, Xa kỵ Trung quân sự (vì Lưu Dụ lần lượt làm Trấn quân tướng quân, Xa kỵ tướng quân). Sau đó ông làm Phụ quốc Chinh tây tham quân cho [[Lưu Đạo Quy]], lĩnh chức Ninh Thục <ref>Nay là [[Thành Đô]]</ref> thái thú. Ông cùng Lưu Cơ chém được Thái Mãnh ở Đại Bộ, quay về triều nhận chức Thái Úy tham quân.