Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ivan Jablonka”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
[[Tập tin:Jablonka Rendez-Vous Histoire de Blois.png|nhỏ|425x425px]]
'''Ivan Jablonka''', sinh ngày 23 tháng 10 năm 1973 tại [[Paris]]. Ông là sử gia, [[nhà văn]], đồng thời là [[giáo sư]] sử học đương đại tại [https://www.univ-paris13.fr/ Đại học Paris-XIII].
 
== Tiểu sử ==
Sinh ra trong một gia đình trí thức gốc [[Ba Lan]] nhập cư vào Pháp trong những năm 1930 trước khi cuộc [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế Chiến 2]] nổ ra (cha là kỹ sư vật lý và mẹ là giáo sư văn học). Sau khi tốt nghiệp bằng tú tài ở trường Trung học nổi tiếng Henri-IV, ông thi đậu vào trường École normale supérieure Paris tốt nghiệp với bằng Agrégation chuyên ngành lịch sử. Đến năm 2004, ông bảo vệ thành công luận án sử học tại đại học [[Sorbonne]]. Ông trở thành phó giáo sư sử học đương đại tại trường đại học Maine năm 2005, đến năm 2013 ông trở thành giáo sư sử học tại đại học université Paris-XIII-Nord.
 
Song song với sự nghiệp nghiên cứu hàn lâm chuyên ngành lịchsử sửhọc, ông là nhà văn đương đại Pháp ([http://www.seuil.com/ NXB Seuil]) và là chủ biên (Tạp chí [https://laviedesidees.fr/ La vie des Idées] (Đời sống ý tưởng) ) có uy tín trong giới trí thức Pháp hiện nay.
 
== Sự nghiệp xuất bản ==
Dòng 21:
Những năm 2006 và 2007 Ivan Jablonka liên tiếp viết hai tác phẩm tiểu luận lịch sử về trẻ em - ''Ni père ni mère'' (Không cha không mẹ) (2006) và ''Enfants en exil : transfert de pupilles réunionnais en métropole (1963-1982) (Trẻ em và lưu vong)'', nghiên cứu đối tượng trẻ em chịu đau thương và bị bỏ rơi do hoàn cảnh xã hội hoặc do chiến tranh - đây vốn là đối tượng lịch sử mà ông quan tâm sâu sắc có lẽ một phần do cha ruột ông là một trẻ mồ côi của những nạn nhân thảm sát Do Thái trong Thế Chiến 2.
 
Đến năm 2012, cuốn tự truyện gia đình ''Histoire des grands-parents que je n’ai pas eus'' (Đi tìm những cuộc đời bị đánh cắp của ông bà tôi) kể về lịch sử một gia đình [[Do Thái giáo|Do Thái]], nạn nhân của diệt chủng Do Thái ([[Holocaust|Shoah]]) trước và trong Thế Chiến 2, đã khiến tên tuổi của Ivan Jablonka vượt ra khỏi biên giới nước Pháp. Kể từ tác phẩm này ông được xem là một trong những tác giả đương đại sáng giá của văn chương Pháp.
 
Năm 2016, Ivan Jablonka lại một lần nữa gây ấn tượng văn đàn Pháp với tác phẩm ''Laëtitia ou la Fin des hommes'' (''Laëtitia'' hay là sự cáo chung của nam giới), một cuốn truyện tiểu sử trong đó ông điều tra về cuộc đời của cô bé Laëtitia trong một vụ án giết người có thật ở Pháp.
 
== Tác phẩm tiêu biểu ==
''Histoire des grands-parents que je n’ai pas eus'' (Đi tìm những cuộc đời bị đánh cắp của ông bà tôi) (Seuil, 2012) là cuốn tự truyện gia đình kể về cuộc đời của ông Matès và bà Idesa Jablonka, là ông bà nội của tác giả. Họ xuất thân là những người Do Thái cộng sản bị chính quyền quốc xã truy đuổi khỏi Ba Lan, phải nhập cư bất hợp pháp vào Pháp để tránh tù tội. Thế nhưng sau đó, từ Paris, ông Matès và bà Idesa lại trở thành những nạn nhân Do Thái bị trục xuất và đày đến trại [[Trại tập trung Auschwitz|Auschwitz]] rồi bị giết chết trong những đợt thảm sát người Do Thái trong [[Trại tập trung của Đức Quốc xã|trại tập trung]].
 
Để viết tác phẩm này, Jablonka đã phải sử dụng đến nhiều nguồn tư liệu lịch sử ở nhiều nước, gặp gỡ những nhân chứng có mối liên hệ, từ Pháp sang Ba Lan, từ Mỹ đến Argentina… để tìm lại những dấu vết của ông bà nội mình, và được viết với một văn phong chân thật nhưng vô cùng trau chuốt, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc và đầy nhân văn khiến tác phẩm không những có giá trị về lịch sử mà còn mang những phẩm chất văn chương hiếm có. Cuốn sách ngay khi phát hành đã tạo nên tiếng vang lớn tại Pháp vì tính sử liệu và tính văn chương nhân bản, được trao 3 giải thưởng danh giá : Prix du Sénat du Livre d'histoire (giải Thượng viện dành cho sách lịch sử), Prix Guizot de l'Académie française (giải Guizot của Viện hàn lâm Pháp), Prix Augustin Thierry des Rendez-vous de l'Histoire (giải Augustin Thierry nghiên cứu sử học), và được đánh giá là một trong mười cuốn sách quan trọng của văn chương Pháp những năm 2012 đến nay. Tác phẩm đã được dịch sang tiếng Anh, tiếng Ý và tiếng Tây Ban Nha.
 
''Laëtitia ou la Fin des hommes'' (''Laëtitia'' hay là sự cáo chung của nam giới) (Seuil, 2016) một cuốn truyện tiểu sử được Ivan Jablonka viết theo kiểu « tiểu thuyết có thật », qua đó tác giả vận dụng tài năng của sử gia và của nhà văn để kể lại câu chuyện cuộc đời cô gái Laëtitia Perrais, bị bạn trai bắt cóc rồi giết chết và chặt xác ra nhiều mảnh... Giá trị ở cuốn sách không nằm ở việc kể lại một vụ án mà thông qua cái chết bi thảm của nạn nhân tác giả đã phân tích vai trò của truyền thông báo chí, tác động của luật pháp và chính quyền dưới thời tổng thống Nicolas Sarkozy, ảnh hưởng của giới trẻ trong xã hội về bạo lực đối với nữ giới. Ngoài việc kể chuyện thân phận một cô gái trẻ bị sát hại, tác giả phân tích và suy nghiệm sâu sắc hiện tượng bạo lực lên phụ nữ trong xã hội ngày nay. Thêm một lần nữa Ivan Jablonka lại chứng tỏ một sức viết mãnh liêt kết hợp giữa tư liệu sử-xã-hội và sáng tạo văn chương cho một cái nhìn nhân văn với nữ giới trong xã hội đương đại. Cuốn sách đã được trao hai giải thưởng lớn prix Médicis và prix littéraire du ''Monde'' (giải văn chương nhật báo [[Le Monde]]) năm 2016. Tác phẩm đã dịch ở 6 quốc gia (Mỹ, Ý, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Hàn Quốc, vùng Catalan).
 
== Văn học và khoa học xã hội ==