Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Triều Tiên Cao Tông”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 59:
}}
 
'''Triều Tiên Cao Tông''' ([[1852]] - [[1919]], [[Hangul]]: 조선 고종; [[Hanja]]: 朝鮮高宗; RR: Gojong; MR: Kojong), ông là vị vua đầu tiên của [[Triều Tiên]] xưng danh hiệu [[hoàng đế]] trong khi các vua trước của Triều Tiên chỉ xưng [[vương]]. Khi [[Cao Tông]] xưng ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là '''Quang Vũ'''. Đế quốc Đại Hàn của ông chỉ tồn tại 2 đời hoàng đế: ông, và người kế nhiệm của ông - [[Triều Tiên Thuần Tông]]. Sau 43 năm làm vua, ông mất, [[miếu hiệu]] là Cao Tông, [[thụy hiệu]] là "Thống thiên long vận triệu cực đôn luân chính thánh quang nghị minh công đại đức nghiêu tuấn thuấn huy vũ mô thang kính ứng mệnh lập kỉ chí hóa thần liệt nguy huân hồng nghiệp khải cơ tuyên lịch can hành khôn định anh nghị hoằng hưu thọ khang văn hiến vũ chương nhân dực trinh hiếu hoàng đế".
 
Ông là vị [[Thái thượng hoàng]] đầu tiên và cũng là duy nhất của [[Triều Tiên]]
Dòng 70:
Cao Tông tên húy là Lý Mệnh Phúc ([[Hangul]]: 이명복; [[Hanja]]: 李命福), sau đổi thành Lý Hi ([[Hangul]]: 이희; [[Hanja]]: 李㷩), là con trai của Hưng Tuyên Đại viện quân Lý Thị Ứng và Ly Hưng phủ đại phu nhân Mẫn thị. Ra đời năm 1852 ở kinh đô Hán Thành, Cao Tông đăng cơ khi mới chỉ là đứa trẻ 11 tuổi khi Triết Tông Đại vương qua đời năm 1863. Do lên ngôi khi còn nhỏ, thân phụ của Cao Tông là Hưng Tuyên Đại viện quân nắm quyền nhiếp chính và quyết định những vấn đề hệ trọng.
 
Sau khi nắm quyền, Hưng Tuyên Đại viện quân khởi xướng và thi hành các chính sách bắt bớ và đàn áp đối với người theo Thiên Chúa giáo cũng như người Tây Dương trên lãnh thổ Triều Tiên. Những sự đàn áp này đã dẫn tới sự xâm lấn và can thiệp của người Pháp và người Mỹ trong các năm 1866 và 1871. Những năm đầu triều đại của Cao Tông, triều đình bắt đầu xây dựng lại Cảnh Phúc cung (''Gyeongbok''), vốn đã bị phá hủy trong cuộc xâm lược Triều Tiên của Nhật Bản cuối thế kỉ 16. Tuy nhiên, sự kiện đáng chú ý nhất trong thời gian Hưng Tuyên Đại viện quân nắm thực quyền, chính là sự tranh chấp quyền lực giữa các phe phái trong triều, nhất là An Đông Kim thị đã hoàn toàn chấm dứt, sau khi quyền lực phần lớn được thu về trong tay Đại viện quân.
 
Năm 1873, Cao Tông đã 21 tuổi và tuyên bố thân chính, Hưng Tuyên Đại viện quân chính thức lui về về năm sau. Ngay sau khi Cao Tông chính thức nắm quyền, vương hậu Minh Thành nhanh chóng trở thành một quyền lực mới trong triều đình, đưa những người họ hàng của mình vào những chức vụ bên cạnh vua. Điều này làm Hưng Tuyên Đại viện quân vô cùng tức giận, một số người trong vương tộc, cũng như một số quan lại thuộc phái Nam nhân, thậm chí đã âm mưu tiến hành chính biến.
Dòng 88:
Nhà Thanh lúc này can thiệp, với việc tướng Viên Thế Khải đem quân tràn vào Triều Tiên và bắt Hưng Tuyên Đại viện quân đem về Bắc Kinh trước khi trả ông về nước sau đó 4 năm (1886).
 
Ngày 4 tháng 12 năm 1884, năm cuộc khởi binh đã mở đầu cho Chính biến Giáp Thìn. Những lực lượng tham gia chính biến là những binh lính thuộc nhóm duy tân, khởi binh nhằm muốn hạ bệ vua Cao Tông và vương hậu Minh Thành. Tuy nhiên, cuộc khởi binh thất bại chỉ sau ba ngày. Một số người cầm đầu chính biến, trong đó có Kim Ngọc Vận (''Kim Okgyun'', [[Hangul]]: 김옥균; [[Hanja]]: 金玉均), đã phải lưu vong đến Nhật Bản. Những người còn lại đều đã bị xử tử.
 
=== Khởi nghĩa nông dân ===
 
Cuộc sống của nông dân Triều Tiên thế kỉ 19 trở nên vô cùng khó khăn và bần cùng. Người nông dân phải sống trong cảnh nghèo đói, trong những túp lều lụp xụp bên những con đường đầy bùn đất dơ bẩn. Nạn đói, sự nghèo khổ, sưu cao thuế nặng và tình trạng tham nhũng của quan lại đã đẩy người nông dân Triều Tiên lúc này vào cảnh khốn cùng. Chính những điều này đã khiến người nông dân đứng lên khởi nghĩa, mà một trong những cuộc khởi nghĩa lớn nhất đã diễn ra là cuộc khởi nghĩa lãnh đạo bởi Hồng Cảnh Lai (''Hong Gyeong-nae'', [[Hangul]]: 홍경래; [[Hanja]]: 洪景來) ở đạo Bình An trong những năm 1811-1812 dưới triều vua Thuần Tổ.
 
Năm 1894, một cuộc đại khởi nghĩa khác bùng nổ. Đại khởi nghĩa Đông Học, chủ trương chống lại chính quyền phong kiến nhà Triều Tiên, chống tầng lớp lưỡng ban cũng như chống ngoại bang, đã gây ra rất nhiều khó khăn cho triều đình. Để dẹp cuộc khởi nghĩa này, vua Cao Tông đã phải nhờ tới sự trợ giúp của nước ngoài, chủ yếu là Nhật Bản. Cuộc khởi nghĩa nhanh chóng bị dập tắt, nhưng những hậu quả mà nó đem lại là rất to lớn. Triều Tiên ngày càng rơi sâu vào trong vòng bảo hộ của Đế quốc Nhật Bản. Cuộc cách mạng tuy đã chấm dứt, nhưng những mối bất bình của nông dân sau này đã được để tâm tới trong cuộc Giáp Ngọ Duy tân sau này.
Dòng 106:
=== Cuộc tị nạn của Hoàng gia tại Công sứ Nga ===
 
Sau những biến loạn trong nước, vua Cao Tông lo sợ trước sự lấn quyền của người Nhật, cũng như lo lắng về những cuộc đảo chính sẽ lần nữa đe dọa sự an nguy của mình. Một viên quan thân Nga, Lý Phạm Tấn (''Yi Beom-jin'', [[Hangul]]: 이범진; [[Hanja]]: 李範晋) cùng công sứ Nga tại Triều Tiên là Karl Ivanovich Weber đã sắp xếp cho nhà vua cùng thái tử Lý Chước dời từ Cảnh Phúc cung đến trú ở Công sứ Nga tại Seoul. Từ [[Tậpđây, tin:Gojongnhà ofvua theđã tị nạn và điều hành một công việc quốc gia trong khoảng thời gian hơn một năm, từ ngày 11/2/1896 đến Koreanngày Empire20/2/1897.jpg|bélyegkép|200px|thumb|Triều Tiên Cao Tông(1904)]]
 
=== Đế quốc Đại Hàn ===
 
Đầu năm 1897, vua Cao Tông rời Công sứ Nga về lại cung Khánh Vận (''Gyeongun-gung'', 경운궁, 慶運宮, nay có tên là Đức Thọ cung) và hạ lệnh tu sửa, mở rộng cung điện này. Với ý muốn độc lập, tự cường cho nước Triều Tiên, tháng 10 cùng năm, vua Cao Tông tự xưng làm hoàng đế, đặt niên hiệu là Quang Vũ (''Gwangmu,'' 광무'','' 光武), chính thức thành lập Đế quốc Đại Hàn. Điều này chấm dứt sự lệ thuộc trên danh nghĩa của vua Triều Tiên vào hoàng triều nhà Thanh của Trung Quốc, từ khi Triều Tiên thừa nhận bá quyền của Đại Thanh sau khi triều Minh sụp đổ vào thế kỉ 17. Việc thành lập Đế quốc Đại Hàn, thể hiện ý thức ngang hàng của hoàng triều Triều Tiên với nhà Thanh Trung Quốc, chấm dứt quyền bá chủ trên danh nghĩa của hoàng đế nhà Thanh ở Đông Á.
 
Sau khi đăng cơ làm hoàng đế, Cao Tông cố gắng thúc đẩy cuộc Quang Vũ Duy tân. Năm 1904-05, Đế quốc Nhật Bản tiếp tục giành thắng lợi trong Chiến tranh Nga-Nhật. Cùng lúc đó, Nhật Bản kí với Triều Tiên hiệp ước bảo hộ, tước đi quyền độc lập của Đế quốc Đại Hàn. Năm 1907, hoàng đế Cao Tông gửi đại diện cuả mình đến Hội nghị hòa bình Hague để cố gắng lấy lại quyền thống trị tối cao của mình tại Triều Tiên. Các đại biểu của Nhật Bản đã ngăn chặn những đại diện Triều Tiên đến Hội nghị, nhưng những đại diện này không từ bỏ nhiệm vụ của mình, mà sau đó tham gia những cuộc phỏng vấn trước báo giới. Một trong số đại diện Triều Tiên đã cảnh báo trước tham vọng bá quyền của Nhật Bản tại Viễn Đông: <blockquote>" Nước Mỹ không nhận ra được chính sách của Nhật Bản tại Viễn Đông và không biết những chính sách này báo trước điều gì. Người Nhật đã áp đặt một chính sách sẽ giúp họ có được sự kiểm soát về thương mại và công nghiệp ở Viễn Đông. Nhật Bản rất cay cú với người Mĩ và cả với người Anh. Nếu Mỹ không chú ý đến Nhật Bản, chính họ sẽ làm cho người Mỹ và người Anh phải biến khỏi Viễn Đông."</blockquote>Dần trở nên khó kiểm soát, hoàng đế Cao Tông bị người Nhật buộc phải thoái vị. Thái tử Lý Chước được lập lên thay thế và trở thành hoàng đế Thuần Tông, vị hoàng đế cuối cùng của Đại Hàn Đế quốc.
 
Sau khi thoái vị
 
Sau khi bị bức rời khỏi ngai vàng, Cao Tông đã bị quản thúc tại cung Khánh Vận, sau đó, cung điện này bị đổi tên thành Đức Thọ cung. Ngày 22/8/1910, Đại Hàn Đế quốc bị sáp nhập vào Đế quốc Nhật Bản, theo đó, hoàng đế Thuần Tông cũng bị truất phế khỏi ngai vàng. Cao Tông sau đó băng hà vào ngày 21/1/1919 tại Đức Thọ cung ở tuổi 66. Ngay sau khi Cao Tông băng hà, người ta cho rằng ông đã bị giết hại bởi người Nhật. Điều này đã làm dấy lên Tam Nhất Vận động (cuộc vận động ngày 1/3), chống lại sự cai trị của người Nhật.
 
Cao Tông được táng tại Hồng Lăng (''Hongneung'', 홍릉, 洪陵) cùng với Vương hậu, ngày nay thuộc thành phố Namyang. Ông được truy tôn miếu hiệu là Cao Tông, thụy hiệu là "Thống Thiên Long Vận Triệu Cực Đôn Luân Chính Thánh Quang Nghị Minh Công Đại Đức Nghiêu Tuấn Thuấn Huy Vũ Mô Thang Kính Ứng Mệnh Lập Kỉ Chí Hóa Thần Liệt Nguy Huân Hồng Nghiệp Khải Cơ Tuyên Lịch Can Hành Khôn Định Anh Nghị Hoằng Hưu Thọ Khang Văn Hiến Vũ Chương Nhân Dực Trinh Hiếu Hoàng đế".
 
[[Tập tin:Gojong of the Korean Empire.jpg|bélyegkép|200px|thumb|Triều Tiên Cao Tông(1904)]]
 
==Gia đình==