Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Dục Đức”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 55:
Trong thời gian này, ông có quan hệ chặt chẽ với người [[Pháp]], khi đó đang xâm lược [[Việt Nam]]. Năm [[1881]], vào thời điểm Pháp rục rịch tấn công miền bắc, ông từng cho chuyển nhiều tài liệu quan trọng về việc nước cho Trú sứ Pháp là Rheinart.<ref name="NPT371" />
 
==Tại vị chỉ đượcVua ba ngày.==
Tháng 7 năm [[1883]], vua [[Tự Đức]] bị bệnh nặng, đưa di chiếu truyền ngôi cho Ưng Chân, và dùng [[Trần Tiễn Thành]] làm Phụ chánh Đại thần, [[Nguyễn Văn Tường]], [[Tôn Thất Thuyết]] làm Đồng Phụ chánh Đại thần.<ref>Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quỳnh, sách đã dẫn, trang 580.</ref> Nhưng trong di chiếu có đoạn phê bình tính nết của tự quân như sau: ''... Nhưng vì có tật ở mắt nên hành vi mờ ám sợ sau này thiếu sáng suốt, tính lại hiếu dâm cũng là điều chẳng tốt chưa chắc đã đảm đương được việc lớn. Nước có vua lớn tuổi là điều may cho xã tắc, nếu bỏ đi thì biết làm sao đây".'' Các quan Phụ chính [[Trần Tiễn Thành]], [[Nguyễn Văn Tường]] và [[Tôn Thất Thuyết]] dâng sớ lên vua Tự Đức xin bỏ mấy đoạn có liên quan đến tính nết xấu của tự quân và câu ''"không chắc đảm đương nổi việc lớn"'' nhưng vua Tự Đức từ chối, vì cho rằng viết như thế để tự quân biết kiểm điểm và tu tỉnh.<ref>Tôn Thất Bình, sách đã dẫn, trang 115.</ref>
 
Dòng 70:
Và đề nghị xóa phần di chiếu đó. [[Trần Tiễn Thành]] bằng lòng, hai viên còn lại cũng giả vờ đồng ý. Vì thế Tự quân tự tay xóa bỏ đoạn ấy trong tờ di chiếu, lại dặn riêng với [[Trần Tiễn Thành]] cách hành xử lúc tuyên đọc di chiếu.
 
Đến hôm đọc di chiếu, [[Trần Tiễn Thành]] khi đến đoạn ấy thì đọc lướt và nhỏ tiếng, không ai nghe thấy cả. [[Nguyễn Văn Tường]] và [[Tôn Thất Thuyết]] khi đó mới giở trò lật mặt, giả bộ làm ra vẻ quái lạ, rồi chất vấn vua nối ngôi sao dám giấu bớt di chiếu của Tiên đế, thật là bậy bạ vô cùng, lại vặn hỏi Tiễn Thành. Tiễn Thành biết rằng đã bị đánh lừa, mới đáp rằng mình bị chứng khan tiếng, đọc đến đoạn ấy thì hết hơi. Tường và Thuyết không chịu, lập tức sai quân cấm vệ bắt giữ 10 người hộ vệ của vua nối ngôi đứng đầu là [[Nguyễn Như Khuê]], giam vào ngục, rồi cho Tham tri [[Nguyễn Trọng Hợp]] lấy di chiếu đọc lại.<ref name="NPT372">Nguyễn Phước tộc, sách đã dẫn, trang 372.</ref> Sau đó họp các hoàng thân và các quan ở Tả vu, nói về tội lỗi của Ưng Chân, và xin lập vua khác. [[Trần Tiễn Thành]] muốn can ngăn, nhưng [[Tôn Thất Thuyết]] quát rằng:
:''Ông cũng có tội to, còn muốn nói gì nữa.''
Khi đó trong cả triều chỉ có quan Chưởng ấn là [[Phan Đình Phùng]] lên tiếng phản đối, liền bị bắt giam vào ngục.<ref name="ReferenceA"/><ref>Tôn Thất Bình, sách đã dẫn, trang 116 - 117.</ref> [[Trần Tiễn Thành]] và các hoàng thân đều khiếp sợ, không dám làm trái và cùng ký tên vào tờ hạch tội, tâu xin ý chỉ của Thái hoàng Thái hậu ([[Từ Dụ]]) truất bỏ đi. Tờ hạch tội buộc cho vua Dục Đức bốn tội lớn:
 
Khi đó trong cả triều chỉ có quan ChưởngNgự ấnsử là [[Phan Đình Phùng]] lên tiếng phản đối, vị thũ lĩnh cuộc khởi nghĩa Hương Khê trong phong trào Cần Vương sau này liền bị bắt giam vào ngục.<ref name="ReferenceA"/><ref>Tôn Thất Bình, sách đã dẫn, trang 116 - 117.</ref> [[Trần Tiễn Thành]] và các hoàng thân đều khiếp sợ, không dám làm trái và cùng ký tên vào tờ hạch tội, tâu xin ý chỉ của Thái hoàng Thái hậu ([[Từ Dụ]]) truất bỏ đi. Tờ hạch tội buộc cho vua Dục Đức bốn tội lớn:
* Muốn sửa di chiếu của vua cha.
 
* Có đại tang mà mặc áo màu.
*'''Muốn sửa di chiếu của vua cha:''' Ở đây nhà vua là con nuôi của Tự Đức, coi Tự Đức là "Dưỡng phụ" chứ không phải "phụ hoàng". Nhưng Tự Đức đã có di chiếu, Dục Đức lại coi Tự Đức như vua cha của mình. Tự Đức mất để lại di chiếu. Dục Đức thấy di chiếu còn thừa một đoạn nên cắt bớt đoạn đó.
* Tự tiện đưa một giáo sĩ vào Hoàng thành.
*'''Có đại tang mà mặc áo màu:''' Ở đây là lúc Tự Đức mất đi, các quan mặc áo tang để đi tang lễ Tự Đức. Dục Đức khi có tang lễ lại mặc áo màu, cởi áo long bào ra để an táng Tự Đức.
* Thông dâm với nhiều cung nữ của vua cha.
*'''Tự tiện đưa một giáo sĩ vào Hoàng thành:''' Ở đây muốn nói Dục Đức nghe tin có một giáo sĩ, sai người đưa giáo sĩ ấy vào. Thái hậu Từ Dụ thấy vậy kinh sợ, nhưng Dục Đức lệnh giáo sĩ phải ở lại.
* '''Thông dâm với nhiều cung nữ của vua cha:''' Ở đây ý nói Tự Đức có 300 cung nữ.
Sau khi nhận được sự đồng ý của Thái hoàng Thái hậu, hai quan Phụ chính liền ra chỉ phế truất ông vào ngày [[23 tháng 7]] năm [[1883]],<ref>Phan Thuận An, sách đã dẫn, trang 115.</ref> giáng làm Thụy quốc công như trước,<ref name="NPT372" /> và giam vua Dục Đức ở nơi ở cũ là Dục Đức đường, rồi viện Thái y, và cuối cùng là Ngục thất<ref>'''Ngục thất''' (sau đổi tên là Khám đường) trong [[Kinh thành Huế]] là một cái nhà tù "đặc biệt" dành cho những người phạm "trọng tội", được thiết lập từ đầu triều Nguyễn. Khi ấy, Ngục thất nằm ở góc Tây Bắc trong Kinh thành Huế, trên một cái hồ lớn, thường gọi là hồ Khám. Toàn khu có bốn cái nhà. Một nhà dài lớn ở phía trước, dùng làm văn phòng và trại canh. Ba dãy nhà sau là trại giam. Tù nhân ở đây phần lớn là những [[tu sĩ]] [[đạo Thiên chúa]] không chấp hành luật lệ cấm đạo của các vua [[nhà Nguyễn]]. Tuy nhiên, những người tù nổi tiếng nhất lại là ba cái đầu lâu của [[Nguyễn Nhạc]], [[Nguyễn Huệ]] và [[Nguyễn Quang Toản]]. Sau [[Trận Kinh thành Huế 1885|trận Kinh thành Huế năm 1885]], ba đầu lâu ấy mới thất lạc. Cho đến đời vua [[Thành Thái]], thì Ngục thất không còn được sử dụng nữa. Nguyên do là vì cha ông là vua Dục Đức đã bị truất phế, tống ngục, và rồi chết đói tại đây. Ngày nay, trên nền Ngục thất xưa là trường Phổ thông Cơ sở Tây Lộc, thuộc phường [[Tây Lộc]], [[thành phố Huế]]. Nguồn tham khảo: Nguyễn Đắc Xuân, "Ngục thất" trong sách ''Hướng dẫn tham quan Kinh thành Huế''. Nhà Xuất bản Thuận Hóa, 1994, tr. 147-148.</ref> trong [[Kinh thành Huế]].
 
==Kết cục Phế đế==
[[Nguyễn Văn Tường]] muốn lập Ưng Đăng lên làm vua, nhưng [[Tôn Thất Thuyết]] nắm quân đội trong tay, lập em của [[Tự Đức]] là Lãng quốc công Hồng Dật lên ngôi, với niên hiệu là [[Hiệp Hòa]]. Trải qua hai đời vua [[Hiệp Hòa]], [[Kiếnlúc Phúc]] thay nhau làm vua trong chưa đến 2 năm và bị thao túng dưới tay quyền thần, thì Dục Đức vẫn bị giam cầm. Đến khi vua [[Hàm Nghi]] lên ngôi,này [[Nguyễn Văn Tường]] và [[Tôn Thất Thuyết]] bàn nhau việc trừ khử Tự quân (tức Dục Đức, lúc đó đang bị giam ở viện Thái y), mới dời ông qua nhà ngục phủ Thừa Thiên và cho canh giữ cẩn mật, lại bắt các con của ông về quản thúc ở quê mẹ: hai hoàng tử thứ 7 (tức vua [[Thành Thái]] sau này) và thứ 9 theo mẹ là bà Vương phi [[Phan Thị Điều]] về xã Phú Lương, Hoàng tử thứ 10 theo mẹ là bà Nguyễn thị về xã Phú Xuân, còn Hoàng tử thứ 11 vẫn đang trong bụng mẹ. Các con của ông nguyên trong tên có bộ Sơn(山) đều phải đổi theo bộ Thạch(石). Hai người mật báo với quan cai ngục không cho Tự quân ăn uống gì nữa.
 
Giờ Thìn (7-9h) ngày [[6 tháng 10]] năm [[1883]]<ref>Theo [[Phạm Văn Sơn]] (sách đã dẫn, tr. 386) và Phan Thuận An (sách đã dẫn, tr. 115), có nguồn cho là ngày [[24 tháng 10]] năm [[1884]] thời vua [[Hàm Nghi]], như website ''Trung tâm bảo tồn di tích Cố đô Huế'' [http://www.hueworldheritage.org.vn/?catid=109&id=216], và ở đây [http://daidoanket.vn/index.aspx?Menu=1420&Chitiet=67375&Style=1].</ref> ông qua đời vì bị bỏ đói,<ref>[http://kienthuc.net.vn/channel/1984/201105/Vua-duc-duc-nam-chung-huyet-mo-voi-nguoi-hanh-khat-1798638/], [http://www.covathue.com/cac%20bai%20viet/Tunguyettamvuong.html]</ref> hưởng dương 32 tuổi. Người cai ngục khai rằng ông tuyệt thực mà chết, và đem di hài an táng ở cánh đồng xứ Tứ Tây, xã An Cựu, huyện [[Hương Thủy]], tỉnh Thừa Thiên, sau được gọi là An Lăng.