Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chữ Duy Ngô Nhĩ cổ”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 21:
Chữ Uyghur cổ được sử dụng từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 17 chủ yếu ở [[Lòng chảo Tarim]] ở [[Trung Á]], nay ở [[Khu tự trị Tân Cương]] [[Trung Quốc]]. Nó là một bảng chữ cái chữ thảo với các tính năng của một [[abjad]] và được viết theo chiều dọc. Chữ phát triển mạnh mẽ trong suốt thế kỷ 15 ở Trung Á và một phần của [[Iran]], nhưng cuối cùng nó đã được thay thế bằng [[chữ Ả Rập]] vào thế kỷ 16. Nó có được sử dụng tiếp tục ở [[Cam Túc]] trong suốt thế kỷ 17. <ref>Pandey, Anshuman. (2019). [https://www.unicode.org/L2/L2019/19016-old-uyghur.pdf ''Revised proposal to encode Old Uyghur in Unicode''.]</ref>
Giống như [[bảng chữ cái Sogdian]] (về mặt kỹ thuật là một [[abjad]]), chữ Uyghur cổ có xu hướng sử dụng ''[[Mater lectionis |matres lectionis]]'' cho các nguyên âm dài cũng như cho các nguyên âm ngắn. (Cách thực hành này cũng được sử dụng ở một mức độ nào đó trong [[tiếng Hebrew hiện đại]] của Israel, nơi nó được gọi là ''[[ktiv hasar niqqud]]'', có nghĩa là đánh vần đầy đủ.) Việc thực hành để lại các nguyên âm ngắn không được trình bày gần như đã bị bỏ hoàn toàn <ref name =clauson>Clauson, Gerard. 2002. Studies in Turkic and Mongolic linguistics. P.110-111.</ref>. Do đó, trong khi cùng xuất phát từ một [[abjad]] Semitic, chữ Uyghur cổ có thể nói là phần lớn được "bảng chữ cái hóa" (alphabetized). <ref name =Houston >Houston, Stephen D. 2004. ''The first writing: script invention as history and process'' (p.59).</ref>
[[Hình:Uighur vert.gif]]
== Tham khảo ==
{{Tham khảo|colwidth=25em}}
|