Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 81:
[[Tập tin:Iron Age Pot From Bidaa Bint Saud.jpg|trái|nhỏ|Một chiếc bình được phát hiện trong tòa nhà [[thời đại đồ sắt]] của [[Bidaa Bint Saud]], [[Al Ain]] được trưng bày tại [[Bảo tàng Quốc gia Al Ain]]. Nó được cho là một lư hương.]]
[[Tập tin:Strait of hormuz.jpg|nhỏ|Một bản đồ Ả Rập năm 1892 biểu thị ''Bờ biển Cướp biển''. Thuật ngữ này lần đầu tiên được người Anh sử dụng vào khoảng thế kỷ 17 và có được tên của nó từ các hoạt động đột kích mà [[Al Qawasim]] theo đuổi chống lại người Anh. Các tội danh vi phạm bản quyền đã được tranh cãi bởi các nhà sử học và các nhà lưu trữ ở UAE nói riêng. Lập luận phản đối là Al Qasimi là đối tượng gây hấn của Anh trong nỗ lực đóng dấu thẩm quyền của mình trên các tuyến thương mại được cho là quan trọng đối với Iraq và Ấn Độ.]]
Vùng đất của Tiểu vương quốc đã bị chiếm giữ hàng ngàn năm. Các công cụ bằng đá được phục hồi ở [[Jebel Faya]] thuộc tiểu vương quốc [[Sharjah]] cho thấy một khu định cư của người dân [[châu Phi]] cách đây 127.000 năm và một công cụ bằng đá dùng để giết mổ động vật được phát hiện tại [[Jebel Barakah]] trên bờ biển Ả Rập cho thấy nơi cư trú thậm chí từ hơn 130.000 năm trước.<ref>{{Cite news|url = http://www.thenational.ae/uae/uae-archaeologist-discovers-the-swiss-army-knife-from-130-000-years-ago|title = UAE archaeologist discovers the Swiss Army knife from 130,000 years ago|last = Pennington|first = Roberta|date = 5 February 2014|work = The National |accessdate=19 February 2017}}</ref> Không có bằng chứng liên hệ với thế giới bên ngoài ở giai đoạn đó, mặc dù trong thời gian đó, các liên kết thương mại sôi động được phát triển với các nền văn minh ở [[Lưỡng Hà|Mesopotamia]], [[Iran]] và [[Văn minh lưu vực sông Ấn|văn hóa Harappan]] của [[Thung lũng sông Ấn|Thung lũng Indus]]. Sự tiếp xúc này vẫn tồn tại và trở nên rộng khắp, có lẽ được thúc đẩy bởi việc buôn bán đồng tại dãy [[núi Hajar]], bắt đầu khoảng 3.000 TCN.<ref>{{cite web|url=http://www.adias-uae.com/ |title=Abu Dhabi Islands Archaeological Survey (ADIAS) |publisher=Adias-uae.com |accessdate=12 February 2016 }}</ref> Các nguồn tin của người Sumer nói về UAE như là quê hương của người 'Makkan' hoặc người [[Magan (văn minh)|Magan]].<ref>{{Cite book|title=The Early History of Civilisation|last=Woolley|first=Leonard|publisher=UNESCO|year=1963|isbn=|location=|page=611}}</ref>
 
Có sáu thời kỳ định cư chính của con người thời tiền Hồi giáo, bao gồm [[thời kỳ Hafit]] từ 3.200-2.600 TCN; [[văn hóa Umm Al Nar]] kéo dài từ 2.600-2.000 TCN, [[Văn hóa Wadi Suq|người Wadi Suq]] thống trị từ 2.000-1.300 TCN. Từ năm 1.200 trước Công nguyên đến sự ra đời của Hồi giáo ở [[Đông Ả Rập]], qua ba thời đại đồ sắt (Thời đại đồ sắt 1, 1.200-1.000 trước Công nguyên; Thời đại đồ sắt 2, 1.000-600 trước Công nguyên và Thời đại đồ sắt 3, 600-300 trước Công nguyên) và [[thời kỳ Mleiha]] (năm 300 trước Công nguyên) khu vực này đã bị [[Nhà Achaemenes|Achaemenid]] và các lực lượng khác chiếm đóng và chứng kiến ​​việc xây dựng các khu định cư kiên cố và chăn nuôi rgờ vào sự phát triển của hệ thống thủy lợi [[Qanat|falaj]].
Dòng 88:
 
=== Hồi giáo ===
Thời điểm Hồi giáo truyền bá đến mũi đông bắc của [[bán đảo Ả Rập]] được cho là diễn ra ngay sau một lá thư của [[Nhà tiên tri|Nhà tiên tri Hồi giáo]] [[Muhammad]] gửi đến những người cai trị Oman vào năm 630. Tiếp đó có một nhóm người cai trị đi đến [[Medina]], cải sang Hồi giáo và sau đó lãnh đạo khởi nghĩa thành công chống lại Sassanid.<ref>{{Cite book|title = From Trucial States to United Arab Emirates|last = Bey|first = Frauke|work= Longman|year = 1996|isbn = 0582277280978-0582277281|location = UK|page = 127}}</ref> Sau khi Muhammad từ trần, các cộng đồng Hồi giáo mới ở phía nam vịnh Ba Tư có nguy cơ tan rã do có các cuộc khởi nghĩa chống các thủ lĩnh Hồi giáo. [[Abu Bakr|Khalip Abu Bakr]] phái một đội quân từ thủ đô Medina, họ hoàn thành tái chinh phục lãnh thổ ([[Chiến tranh Ridda|cuộc chiến Ridda]]) sau trận chiến đẫm máu tại [[Trận Dibba|Dibba]] khiến khoảng 10.000 người thiệt mạng.<ref>{{Cite book|title = From Trucial States to United Arab Emirates|last = Bey|first = Frauke|work= Longman|year = 1996|isbn = 0582277280978-0582277281|location = UK|pages = 127–128}}</ref> Hành động này đảm bảo tính toàn vẹn của Đế quốc Hồi giáo và thống nhất bán đảo Ả Rập dưới quyền [[Nhà Rashidun|Đế quốc Rashidun]] mới xuất hiện.
 
Năm 637, [[Julfar]] (tại khu vực nay là [[Ras al-Khaimah|Ra's al-Khaimah]]) là một cảng quan trọng, được sử dụng làm điểm dừng chân của quân Hồi giáo đi xâm lược [[Nhà Sassanid|Đế quốc Sassanid]] Ba Tư.<ref name="AbedHellyer2001">{{cite book|author1=Ibrahim Abed|author2=Peter Hellyer|title=United Arab Emirates, a New Perspective|url=https://books.google.com/books?id=QcMz3zV0qAMC&pg=PA83|year= 2001|work=Trident Ltd|isbn=978-1-900724-47-0|pages=83–84}}</ref> Khu vực [[Al Ain]]/[[Ốc đảo Buraimi]] được gọi là Tu'am và là một điểm mậu dịch quan trọng đối với các tuyến đường lạc đà giữa duyên hải và nội địa bán đảo Ả Rập.<ref>{{Cite book|title = From Trucial States to United Arab Emirates|last = Bey|first = Frauke|work= Longman|year = 1996|isbn = 0582277280978-0582277281|location = UK|pages = 22–23}}</ref>
 
Địa điểm [[Kitô giáo|Cơ đốc giáo]] sớm nhất ở UAE được phát hiện lần đầu tiên vào những năm 1990, một khu phức hợp tu viện rộng lớn trên hòn đảo ngày nay là [[Sir Bani Yas|Đảo Sir Bani Yas]] và có từ thế kỷ thứ 7. Được cho là Nestorian và được xây dựng vào năm 600 sau Công nguyên, nhà thờ dường như đã bị bỏ hoang vào năm 750 sau Công nguyên.<ref>{{Cite news|url = http://www.thenational.ae/news/uae-news/ancient-secrets-of-sir-bani-yas-island-unveiled|title = Ancient secrets of Sir Bani Yas unveiled|last = Thomas|first = Jen|date = 12 December 2012|work = The National|accessdate = 19 February 2017|deadurl = yes|archiveurl = https://web.archive.org/web/20151222103357/http://www.thenational.ae/news/uae-news/ancient-secrets-of-sir-bani-yas-island-unveiled|archivedate = 22 December 2015|df = dmy-all}}</ref> Nó tạo thành một liên kết hiếm hoi với di sản của Kitô giáo được cho là đã lan rộng trên bán đảo từ 50 đến 350 sau Công nguyên theo các tuyến đường thương mại. Chắc chắn, vào thế kỷ thứ 5, Oman có một giám mục tên là John - giám mục cuối cùng của Oman là [[Etienne]], vào năm 676 sau Công nguyên.<ref>{{Cite book|title = The Trucial States|last = Hawley|first = Donald|work= Allen & Unwin|year = 1971|isbn = 9780049530058|location = UK|pages = 48–51}}</ref>
 
=== Thời đại Ottoman và Bồ Đào Nha ===
Dòng 99:
Môi trường hoang mạc khắc nghiệt dẫn đến xuất hiện "bộ lạc đa tài", các nhóm du mục sinh sống nhờ một loạt các hoạt động kinh tế, bao gồm chăn nuôi, trồng trọt và săn bắn. Các nhóm này chuyển dịch theo mùa nên họ thường xuyên xung đột với nhau, và lập ra các khu dân cư và trung tâm mùa vụ và bán mùa vụ. Chúng hình thành các nhóm bộ lạc có danh xưng tồn tại đến nay, trong đó có [[Bani Yas]] và [[Gia tộc Al Nahyan|Al Bu Falah]] của Abu Dhabi, Al Ain, Liwa và duyên hải Al Bahrayn, [[Dhawahir]], Awamir và [[Manasir (bộ tộc)|Manasir]] tại nội địa, [[Sharqiyin]] tại duyên hải phía đông và [[Al-Qasimi|Qawasim]] ở phía bắc.<ref>{{Cite book|title = The Gazetteer of the Persian Gulf, Oman and Central Arabia|last = Lorimer|first = John|work= Government of India|year = 1908|isbn = |location = Bombay|pages = 1432–1436}}</ref>
 
Đến thế kỷ XVI, các cảng tại vịnh Ba Tư và bộ phận cư dân tại khu vực nay là duyên hải Iraq, Kuwait và Ả Rập Xê Út nằm dưới ảnh hưởng trực tiếp của [[Đế quốc Ottoman]].<ref>{{Cite book|title = The Ottoman Gulf: The Creation of Kuwait, Saudi Arabia, and Qatar|last = Anscombe|first = Frederick F.|work= Columbia University Press|year = 1997|isbn = |location = New York}}</ref><ref>{{Cite book|title = The Ottoman View of British Presence in Iraq and the Gulf: The Era of Abdulhamid II |last = Çetinsaya|first = Gökhan|work= Frank Cass|year = 2003|isbn = |location = Luân Đôn}}</ref> Trong khi đó, các lực lượng thực dân Bồ Đào Nha, Anh và Hà Lan cũng xuất hiện tại Vùng Vịnh, còn toàn bộ duyên hải phía bắc vịnh Ba Tư lúc này vẫn do Ba Tư cai quản. Đến thế kỷ XVII, bang liên Bani Yas là lực lượng chi phối hầu hết khu vực nay là Abu Dhabi.<ref>{{Cite book|title = From Trucial States to United Arab Emirates|last = Bey|first = Frauke|work=Longman|year = 1996|isbn = 0582277280978-0582277281|location = UK|page = 43}}</ref><ref>'Kashf Al Gumma' "Annals of Oman from Early times to the year 1728 AD" – Journal of the Asiatic Society of Bengal, 1874</ref><ref>Ibn Ruzaiq, translated by GP Badger, "History of the Imams and Sayids of Oman", Luân ĐônLondon 1871</ref> Người Bồ Đào Nha duy trì ảnh hưởng đối các khu dân cư duyên hải, xây dựng các công sự sau khi chinh phạt các khu dân cư duyên hải trong thế kỷ XVI, đặc biệt là trên duyên hải phía đông tại [[Muscat, Oman|Muscat]], [[Sohar]] và [[Khor Fakkan]].<ref>{{Cite book|title = From Trucial States to United Arab Emirates|last = Bey|first = Frauke|work=Longman|year = 1996|isbn = 0582277280978-0582277281|location = UK|page = 282}}</ref>
 
Duyên hải phía nam vịnh Ba Tư được người Anh gọi là "Duyên hải Hải tặc",<ref>Baker, Randall (1979), ''King Husain and the Kingdom of Hejaz'', The Oleander Press, 1979, Great Britain</ref><ref>THE{{cite BRITISHbook|title=The THREATBritish TOThreat THEto OTTOMANthe PRESENCEOttoman INPresence THEin PERSIANthe GULFPersian DURINGGulf THEduring ERAthe OFEra ABDULHAMIDof Abdülhamid II ANDand THEthe RESPONSESResponses TOWARDStoward IT,it|author= BILAL EMRE BIRALBiral, MIDDLEBilal EASTEmre|publisher= TECHNICALMiddle UNIVERSITY,East ANKARA,Technical University|place=Ankara|date=2009|citeseerx = 10.1.1.633.1663}}</ref> do thuyền của liên bang [[Al Qawasim]] (Al Qasimi) có căn cứ tại khu vực này tiến hành quấy nhiễu tàu treo cờ Anh từ thế kỷ XVII cho đến thế kỷ XIX.<ref>{{Chú thíchcite web |url=http://www.waynemadsenreport.com/articles/20081102_3 |tiêuarchive-url=http://web.archive.bibalex.org/web/20111208145256/http://www.waynemadsenreport.com/articles/20081102_3 đề|dead-url=yes |archive-date=8 December 2011 |title=November 3, 2008&nbsp;– The UAE is the old Pirate Coast. Not much has changed. |work=Wayne Madsen Report |ngày truy cậpaccessdate=12 February 2016 }} {{dead link|date=October 2016}}</ref>
 
Các đội viễn chinh Anh bảo vệ tuyến đường đến Ấn Độ trước những kẻ cướp tại [[Ras al-Khaimah]] dẫn đến các chiến dịch nhằm vào các trụ sở và bến cảng khác dọc duyên hải vào năm [[Chiến dịch Vịnh Ba Tư 1809|1809]] và sau đó là vào năm [[Chiến dịch Vịnh Ba Tư năm 1819|1819]]. Đến năm sau, Anh Quốc và một số người cai trị địa phương ký một hiệp ước chiến đấu với nạn hải tặc dọc duyên hải vịnh Ba Tư, khiến xuất hiện thuật ngữ "Các Nhà nước đình chiến", xác định tình trạng của các tiểu vương quốc duyên hải. Các hiệp ước tiếp theo được ký kết vào năm 1843 và 1853.<ref>{{cite web|url=http://www.na.ae/en/education/historicalperiods/britishprince.aspx|title=British Era|website=www.na.ae|access-date=18 July 2018}}</ref>
 
Theo hiệp ước năm 1892, những người theo đạo Hồi đã đồng ý không định đoạt bất kỳ lãnh thổ nào ngoại trừ người Anh và không tham gia vào các mối quan hệ với bất kỳ chính phủ nước ngoài nào ngoài người Anh mà không có sự đồng ý của họ. Đổi lại, người Anh hứa sẽ bảo vệ bờ biển khỏi mọi sự xâm lược bằng đường biển và giúp đỡ trong trường hợp bị tấn công trên bộ. Hiệp ước này được ký kết bởi các quân chủ của Abu Dhabi, Dubai, Sharjah, Ajman, Ras Al Khaimah và [[Umm Al Quwain]] từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 3 năm 1892. Sau đó nó được [[Toàn quyền Ấn Độ|Phó vương Ấn Độ]] và Chính phủ Anh tại [[Luân Đôn]] phê chuẩn.<ref>{{Chú thíchcite web|tácauthor=Kjeilen, giả=Tore Kjeilen |url=http://looklex.com/e.o/trucial_states.htm |tiêu đềtitle=Trucial States |nhà xuất bảnpublisher=Looklex.com |ngàydate=4 April 2007 |url hỏngdeadurl=yes |url lưu trữarchiveurl=https://web.archive.org/web/20100131182401/http://looklex.com/e.o/trucial_states.htm |ngày lưu trữarchivedate=31 January 2010 }}</ref> Do chính sách hàng hải của Anh, các đội tàu ngọc trai có thể hoạt động tương đối an toàn. Tuy nhiên, người Anh cấm chỉ buôn bán nô lệ nên một số sheikh và thương nhân bị mất một nguồn thu nhập quan trọng.<ref>[http://countrystudies.us/persian-gulf-states/84.htm United Arab Emirates – The Economy]. [[Library of Congress Country Studies]]. Retrieved 14 July 2013.</ref>
 
Năm 1869, bộ lạc Qubaisat định cư tại [[Khawr al Udayd]] cố gắng tranh thủ sự ủng hộ của [[Đế quốc Ottoman|Ottoman]]. Khawr al Udayd đã được Abu Dhabi tuyên bố vào thời điểm đó, một yêu sách được người Anh ủng hộ. Năm 1906, [[Percy Cox]], thường trú Anh, đã xác nhận bằng văn bản cho nhà cai trị của Abu Dhabi, [[Zayed bin Khalifa Al Nahyan]] ('Zayed the Great') rằng Khawr al Udayd thuộc về tôn giáo của ông.<ref>{{cite book |last1=Morton|first1=Michael Quentin|title=Keepers of the Golden Shore: A History of the United Arab Emirates |date=15 February 2016|publisher=Reaktion Books|location=London|isbn= 9781780235806|pages=49–50 |url=http://www.reaktionbooks.co.uk/display.asp?ISB=9781780235806 |accessdate=19 February 2017}}</ref>
 
===Thời kỳ Anh bảo hộ và tìm ra dầu mỏ ===
Dòng 113:
Nhằm phản ứng trước tham vọng của các quốc gia châu Âu khác là Pháp và Nga. Anh và "Các quốc gia Đình chiến" đã lập quan hệ mật thiết hơn trong một hiệp ước năm 1892. Các sheikh (quân chủ) chấp thuận không chuyển nhượng bất kỳ lãnh thổ nào với ngoại lệ là Anh và không tham gia các mối quan hệ với bất kỳ chính phủ ngoại quốc nào ngoại trừ Anh mà không được Anh đồng ý. Đổi lại, Anh hứa bảo hộ Duyên hải Đình chiến trước toàn bộ các cuộc công kích bằng đường biển và giúp đỡ trong trường hợp có tấn công trên bộ.
 
Trong thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, ngành [[Ngọc trai|công nghiệp ngọc trai]] phát triển mạnh, tạo ra thu nhập và việc làm cho cư dân vịnh Ba Tư. [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]] có tác động nghiêm trọng đến ngành công nghiệp này, rồi nghề này bị xóa xổ do suy thoái kinh tế toàn cầu vào cuối thập niên 1920 và đầu thập niên 1930 cùng với việc phát minh ngọc trai nuôi cấy. Tàn dư của nghề ngọc trai biến mất không lâu sau Chiến tranh thế giới thứ hai khi [[Chính phủ Ấn Độ]] đánh thuế nặng ngọc trai nhập khẩu từ Vùng Vịnh. Ngành ngọc trai suy thoái khiến kinh tế Các quốc gia Đình chiến cực kỳ gian khổ.<ref>{{Chú thíchcite web |url=http://www.uaeinteract.com/history/trad/trd08.asp |tiêu đềtitle=UAE History & Traditions: Pearls & pearling |work=UAEinteract |ngàyaccessdate=12 truyFebruary cập2016 |deadurl=12yes |archiveurl=https://web.archive.org/web/20160206103534/http://www.uaeinteract.com/history/trad/trd08.asp |archivedate=6 February 2016 }}</ref>
 
[[File:Mid-20th century Dubai.JPG|thumb|left|Dubai năm 1950, [[Bur Dubai]] ở phía trước (tập trung vào Pháo đài Al-Fahidi); [[Deira, Dubai|Deira]] ở giữa bên phải và ở phía bên kia của con lạch còn [[Al Shindagha]] (trái) và [[Al Ras, Dubai|Al Ras]] (phải) trong nền băng qua con lạch một lần nữa từ Deira]]