Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phú Thị”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Tham khảo: clean up, replaced: {{Danh sách xã, thị trấn thuộc huyện Gia Lâm}} → {{Đơn vị hành chính thuộc huyện Gia Lâm}}, removed: Thể loại:Xã, thị trấn thuộc huyện Gia Lâm using AWB
Dòng 43:
== Danh nhân ==
*[[Ỷ Lan]]
*Nguyễn Huy Nhuận (1678-1758) - Tiến sỹ, Tham tụng; Thượng thư trải 5 bộ, Tri Quốc Tử Giám, đã được đặt tên đường tại quê hương Gia Lâm.
*[[Cao Bá Quát]]
*Đoàn Bá Dung - Tiến sỹ, Thượng thư;
*Cao Dương Trạc - Tiến sỹ, Thượng thư;
*Trịnh Bá Tướng - Tiến sỹ, Thượng thư;
*Nguyễn Huy Mãn (1688 - 1739) - Tiến sỹ khoa Tân Sửu (1721), Giám sinh trường Quốc Tử Giám, Gia thần trong phủ Lượng quốc thuộc Vương phủ chúa Trịnh, giữ chức Đô Ngự Sử, Hiến sát sứ Sơn Nam, Đốc đồng Thanh Hoa, thầy dạy hai anh em Nguyễn Huệ, Nguyễn Nghiễm (quê Tiên Điền, Hà Tĩnh) đều đỗ tiến sỹ; Nguyễn Nghiễm là thân phụ của thi hào Nguyễn Du.
*Nguyễn Huy Thuật (1690-) - Tiến sỹ khoa Quý Sửu (1733), văn võ song toàn, Đề hình Giám sát Ngự sử, Hiến sát sứ xứ Sơn Tây, Đốc đồng xứ Kinh Bắc, Thanh Hoa; Tham chính xứ Sơn Tây, Hàn lâm viện Thừa chỉ. Khi về hưu, cụ được chúa Trịnh tặng ba chữ "Kế phương đình" và bốn câu đối;
*Nguyễn Huy Dận (1708-1780), hiệu Giới Am, lấy con gái quan Hộ Bộ Thượng thư Cao Dương Trạc (cùng làng Sủi); Tiến sỹ khoa Mậu Thìn (1748), Tri phủ Từ Sơn, Hàn lâm viện Thị chế, Đông các Hiệu thư, Thái thường Tự khanh, Đốc đồng An Quảng, Sơn Nam, Tả Tham chính Thái Nguyên. Cụ có trước tác để lại, trong đó có bài văn bia Hữu công thôn nội bi ký/ Vĩnh cửu bất san được dựng tại đền thờ Sỹ Nhiếp (xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).
*Nguyễn Huy Cẩn, tức Cận (1729-1790), tên hiệu là Phương Am, Hội nguyên Tiến sỹ, Tiến sỹ khoa Canh Thìn (1760), Tri phủ Lạng Giang, sau từ quan, về mở trường Phương Am dạy học. Cụ có nhiều tác phẩm thơ văn, trong số đó, sau này được học trò là Cao Huy Diệu (cùng làng) tập hợp và soạn thành cuốn "Phương Am Nguyễn tiên sinh truyện" ghi lại 91 bài thơ của thầy mình (hiện vẫn còn ở Viện Hán Nôm); cụ còn là tác giả của bản "Tuyên văn Mục lục" cả chữ Hán và chữ Nôm có nội dung nhân bản và giáo dục cao, ca ngợi phong thổ, cảnh đẹp và truyền thống Làng Sủi.
*Nguyễn Huy Lượng (1759-1808), đỗ Hương cống, Nhà chính trị, Nhà thơ nổi tiếng, giữ chức Hữu Thị Lang Bộ Hộ, danh nhân phò Tây Sơn, sáng tác nhiều thơ văn (Tụng tây hồ phú, Cung oán thi, Lượng như long phú, Văn tế trận vong tướng sỹ, Thơ Hồ Tây, Diễn ca "Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Côn, Ngự đạo hành cung nhật trình, Tam thiên tự giải nghĩa, Tây hồ cảnh tụng, Văn tế con dâu Hoàng Phùng Cơ...), trong đó nổi bật nhất là danh tác "Tụng Tây Hồ phú". Cụ đã được đặt tên đường tại nhiều thành phố lớn ở Việt Nam như TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, TT-Huế.
*[[Cao Bá Quát]] (1808 - ...): Nhà thơ nổi tiếng, đỗ Hương cống (cử nhân). Đã được đặt tên đường ở nhiều thành phố lớn ở Việt Nam.
 
== Tham khảo ==