Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Manic Street Preachers”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 46:
===Kỷ nguyên của Richey Edwards: ''Generation Terrorists'' đến ''The Holy Bible'' (1992–1995)===
[[Tập tin:Manic Street Preachers2.jpg|thumb|200px|trái|Manic Street Preachers tại Chicago vào năm 1992.]]
Album đầu tay của ban nhạc mang tên ''[[Generation Terrorists]]'' được phát hành vào năm 1992 với phần ghi xuất bản của hãng đĩa [[Columbia Records]]. Dòng ghi chú chứa một câu văn học cho từng bài trong tổng số 18 ca khúc của album và thời lượng của đĩa nhạc chỉ hơn 17 phút. Ca từ của album bị chính trị hóa giống [[The Clash]] và [[Public Enemy]],<ref>{{chú thích web |url=http://www.bbc.co.uk/blogs/wales/posts/john_robb_on_manic_street_preachers |title=BBC – Blogs – John Robb on Manic Street Preachers |last=McLaren |first=James |date=9 tháng 2 năm 2012 |website=[[BBC Online]] |accessdate=24 tháng 9 năm 2017}}</ref> còn những bài hát của album thường xuyên chuyển từ tập trung chỉ trích chủ nghĩa tư bản toàn cầu sang những câu chuyện riêng tư hơn về sự tuyệt vọng và đấu tranh của tuổi trẻ. Về phong cách nhạc của album, cây bút của [[Pitchfork Media|Pitchfork]] Joe Tangari viết rằng ''Generation Terrorists'' đã "dạo bước qua một ranh giới kì lạ giữa agit-[[punk rock|punk]], [[cock rock]], giai điệu lãng mạn và [[glam rock|glam]], đồng thời việc học theo hình mẫu ''[[London Calling]]'' của The Clash khiến cho nó thực sự khá là dễ thương."<ref name="Pitchfork"/>
 
Những bài hát khác kết hợp các chủ đề cá nhân và chính trị, ngụ ý đến một mối liên hệ giữa chủ nghĩa tư bản toàn cầu và đấu tranh cá nhân; "Nat West-Barclays-Midlands-Lloyds" được sáng tác nhằm phê bình chính sách tín dụng ngân hàng ở hải ngoại, đồng thời đề cập đến các vấn đề của Richey Edwards liên quan đến vay [[thấu chi]] và những khoản vay bị từ chối.{{sfn|Price|1999|p=76}} Marc Burrows của [[Drowned in Sound]] coi ca khúc là một phép dự đoán chính xác về "khủng hoảng tài chính toàn cầu" và ảnh hưởng của nó đến cuộc sống hàng ngày.<ref name="Burrows">{{chú thích web |url=http://drownedinsound.com/in_depth/4145695-manics-monday--rain-down-alienation-generation-terrorists%E2%80%99-key-tracks |title=Manics Monday: Rain Down Alienation – ''Generation Terrorists'' Key Tracks.|last=Burrows |first=Marc |date=5 tháng 11 năm 2012 |website=[[Drowned in Sound]] |accessdate=30 tháng 12 năm 2017}}</ref> Trong khi đó đĩa "[[Motorcycle Emptiness]]" lại chỉ trích [[xã hội tiêu dùng]] giống như một "giấc mơ nông cạn",{{sfn|Price|1999|p=76}} làm cho cuộc sống của con người bị thương mại hóa một cách công khai. "[[Little Baby Nothing]]" – một bản song ca giữa [[Traci Lords]] và Bradfield – được Priya Elan của ''NME'' miêu tả là "tấm ảnh chụp nhanh hoàn hảo của nét hồn nhiên vô tội và [giới tính] cáchbị cong".<ref>{{chú thích web|url=http://www.nme.com/blog/index.php?blog=10&title=manic_street_preachers_their_10_best_tra&more=1&c=1&tb=1&pb=1 |title=Manic Street Preachers – Their 10 Best Tracks |last=Elan |first=Priya |date=7 tháng 10 năm 2011 |website=[[NME]] không|accessdate=30 bìnhtháng thường"12 năm 2017 |deadurl=yes |archiveurl=https://web.archive.org/web/20111008113059/http://www.nme.com/blog/index.php?blog=10&title=manic_street_preachers_their_10_best_tra&more=1&c=1&tb=1&pb=1 |archivedate=8 tháng 10 năm 2011 }}</ref>
 
Đĩa nhạc gồm có sáu [[đĩa đơn]] và bán được 250.000 bản sao.<ref name="Price"/> Thành công của ''[[Everything Must Go (album)|Everything Must Go]]'' năm 1996 tại lễ trao [[giải Brit]] năm 1997 đã khẳng định rằng doanh số của ''Generation Terrorists'' và cả những album kế tiếp như ''[[Gold Against the Soul]]'' và ''[[The Holy Bible]]'' đượcđem hưởnglại mộtthành sựcông tăng trưởngkhá muộn cho Manics; nhạc phẩm đầu tay của ban nhạc tiêu thụ thêm 110.000 bản sao.<ref name="Price"/> Nhóm còn thực hiện một [[bản hát lại]] ca khúc "[[Suicide Is Painless]]" và nó đã giành vị trí cao nhất - hạng 7 trên các bảng xếp hạng của Anh, trụ vững 3 tuần trong top 10 và đem về cho nhóm đĩa hit đầu tiên lọt vào top 10 đầu tiên.<ref name="UK charts">{{chú thích web |url=http://www.theofficialcharts.com/artist/_/manic%20street%20preachers/ |title=Manic Street Preachers |website=[[Official Charts Company|Official Charts]] |accessdate=21 tháng 8 năm 2017 |deadurl=yes |archiveurl=https://web.archive.org/web/20110615114536/http://www.theofficialcharts.com/artist/_/manic%20street%20preachers/ |archivedate=15 tháng 6 năm 2011}}</ref>
 
Album phòng thu thứ hai của nhóm có tựa ''[[Gold Against the Soul]]'' mang đậm chất nhạc [[grunge]] nhiều tính thương mại hơn khiến nó xa lạ với người hâm mộ và cả chính ban nhạc. Album được phát hành và đón nhận phản hồi trái chiều nhưng vẫn có diễn biển xếp hạng tốt khi giành vị trí thứ 8 trên [[UK Albums Chart]]. Album đại diện cho một thứ âm thanh khác biệt so với album đầu tay của nhóm, không chỉ về ca từ mà còn cả về âm thanh, ban nhạc sử dụng những đoạn riff guitar dài và tiếng trống gây cảm giác hiện đại hơn và vang to trong bản hòa âm cuối cùng của album. Thứ âm thanh này sẽ bị quên lãng trong album kế tiếp của họ và về bản chất ca từ nhóm cũng đã có sự thay đổi, khi Edwards và Wire tránh nhắm tới ngọn lửa chính trị mà thay bằng nỗi u sầu trong nội tâm.<ref name="Price 1999">Price (1999).</ref>
 
Đầu năm 1994, những nỗi khó khăn cá nhân của Edwards trở nên trầm trọng hơn và bắt đầu ảnh hưởng đến các thành viên khác trong nhóm cũng như chính bản thân anh. Anh thừa nhận mình đã vào [[Bệnh viện Priory|viện tâm thần Priory]] để khắc phục những vấn đề của mình và ba thành viên còn lại của nhóm đi biểu diễn tại các nhạc hội để trả tiền viện phí cho anh.<ref name="Price"/> Album kế tiếp của ban nhạc ''[[The Holy Bible]]'' được phát hành vào tháng 8 có lượng đánh giá chuyên môn tốt nhưng doanh số lại kém. Album đã thể hiện một sự thay đổi về âm nhạc và gu thẩm mỹ khác đối với ban nhạc, chủ yếu là bởi sự xuất hiện của bộ quân phục của lính thường/hải quân. Về mặt nhạc tố, ''The Holy Bible'' đánh dấu một sự chuyển mình từ thứ âm thanh [[modern rock]] trong hai album đầu tiên ''Generation Terrorists'' và ''Gold Against the Soul''.<ref name="O'Neil">{{chú thích web |url=http://www.popmatters.com/review/manicstreetpreachers-holybible2005/ |title=Manic Street Preachers: ''The Holy Bible'' –– 10th Anniversary Edition|last=O'Neil |first=Tim |date=19 tháng 5 năm 2005 |website=[[PopMatters]] |accessdate=30 tháng 12 năm 2017}}</ref> Bên cạnh âm thanh [[alternative rock]], album kết hợp thêm nhiều yếu tố từ các dòng nhạc khác như [[hard rock]], [[punk rock|punk kiểu Anh]], [[post-punk]], [[nhạc new wave|new wave]], [[nhạc industrial|industrial]], [[art rock]] và [[gothic rock]].<ref name="Price"/><ref name="Martin">{{chú thích web |url=http://www.nme.com/reviews/7538 |title=NME Reviews – Manic Street Preachers : ''The Holy Bible'' (Tenth Anniversary Edition)|last=Martin |first=Dan |date=12 tháng 9 năm 2005 |website=[[NME]] |accessdate=30 tháng 12 năm 2017}}</ref>
 
Edwards đột ngột mất tích vào ngày 1 tháng 2 năm 1995, thời điểm anh và James Dean Bradfield chuẩn bị bay sang Mỹ trong một chuyến lưu diễn quảng bá.<ref name="Price 1999, pp. 177-178">Price (1999), pp. 177–178.</ref> Trong hai tuần trước khi mất tích, Edwards rút 200 [[bảng Anh|bảng]] mỗi ngày từ tài khoản ngân hàng của mình, tính đến ngày chuyến bay khởi hành theo lịch trình thì tổng số tiền anh đã rút là 2.800 bảng.<ref name="IOS">{{chú thích báo| first=Andy | last=Beckett | pages= | title=Missing street preacher | date=2 tháng 3 năm 1997 | publisher=The Independent on Sunday | url= }}</ref><ref>Price (1999), p. 178.</ref> Anh làm thủ tục rời khỏi Khách sạn Embassy, [[đường Bayswater]], Luân Đôn lúc 7 giờ sáng rồi lái xe đến căn hộ của mình ở [[Cardiff]], xứ Wales. Trong hai tuần kế tiếp anh bị phát hiện rõ ràng hiện diện lần lượt tại văn phòng hộ chiếu [[Newport]]<ref>Price (1999), p. 183.</ref> và trạm xe buýt Newport.<ref name="SP180">Price (1999), p. 180.</ref> Ngày 7 tháng 2, một tài xế taxi từ Newport được cho là đã đón Edwards từ khách sạn King's Hotel tại Newport và lái xe chở anh đi quanh các thung lũng, bao gồm cả Blackwood (mái nhà thời thơ ấu của Edwards). Vị khách xuống xe tại trạm dịch vụ phương tiện Severn View gần làng [[Aust]] và trả phí đi xe 68 bảng bằng tiền mặt.<ref name="Price 1999, p. 179"/><ref>{{chú thích báo| first=Alex | last=Bellos | pages=T.010 | title=Music: Desperately seeking Richey | date=26 tháng 1 năm 1996|publisher=The Guardian | url= }}</ref>
 
Ngày 14 tháng 2, chiếc [[Vauxhall Cavalier]] của Edwards đã nhận một chiếc vé phạt đỗ xe tại trạm dịch Severn View, đến ngày 17 tháng 2 thì phương tiện này được thông báo là đã bị bỏ hoang.<ref name="Price 1999, pp. 177-178"/><ref name="IOS"/><ref>{{chú thích news | author =BBC staff reporter | title=Ten-year tragedy of missing Manic | date=1 tháng 2 năm 2005|publisher=BBC | url=http://news.bbc.co.uk/1/hi/entertainment/music/4210451.stm|accessdate=30 tháng 1 năm 2018}}</ref> Cảnh sát phát hiện [[ắc qui]] xe hết điện cùng bằng chứng cho thấy từng có người sống trong xe. Do trạm dịch vụ khá gần với [[Cầu Severn]] (địa điểm từng là nơi nổi tiếng về nạn [[tự tử]] trong quá khứ),<ref>{{tác giả=Pidd, Helen|url=https://www.theguardian.com/music/2008/nov/29/richey-edwards-manic-street-preachers|tiêu đề=Richey Edwards case closed: how 14 years of hope ended|nhà xuất bản=[[The Guardian]]|ngày truy cập=29 tháng 11 năm 2018.</ref> nhiều người tin rằng Edwards đã kết liễu đời mình bằng cách nhảy cầu.<ref>{{chú thích web|url=https://www.bbc.co.uk/news/entertainment-arts-14264609 |title=Amy Winehouse joins iconic stars who died aged 27|date=25 tháng 7 năm 2011|publisher=BBC|accessdate=25 tháng 7 năm 2017}}</ref> Tuy nhiên nhiều người từng quen biết anh lại cho biết Edwards chưa bao giờ là kiểu người ý định tự sát, họ trích dẫn lời của chính anh vào năm 1994, "Khi đề cập đến từ 'S' (chữ cái đầu tiên của từ tiếng Anh Suicide - tự tử), điều đó chưa bao giờ đi vào tâm trí tôi. Và về mặt ý định thì nó cũng chưa bao giờ thành hiện thực. Bởi vì tôi mạnh mẽ hơn thế. Có thể tôi là một kẻ yếu đuối, nhưng tôi vẫn có thể nén nỗi đau."<ref>{{chú thích web|url=http://www.richeyedwards.net/index.html |title=The Last of Richey Edwards? |publisher=Richeyedwards.net |date= |accessdate=3 tháng 4 năm 2017}}</ref>
 
Kể từ đó, anh từng được cho là đã xuất hiện tại một khu [[chợ]] ở [[Goa]], [[Ấn Độ]] và trên những hòn đảo của [[Fuerteventura]] và [[Lanzarote]]. Có nhiều nhân chứng khác khẳng định có nhìn thấy Edwards, đặc biệt trong những năm sau khi anh mất tích.<ref>{{chú thích báo| first=Caroline | last=Sullivan | title=The lost boys | date=28 tháng 1 năm 2000 | publisher=The Guardian | url=https://www.theguardian.com/friday_review/story/0,,239956,00.html |accessdate=2 tháng 2 năm 2017}}</ref> Tuy nhiên không có trường hợp nào chứng minh thuyết phục cũng như được xác nhận bởi các điều tra viên.<ref>{{chú thích báo| first=Colin | last=Wills | page=62 | title=Is Richey the wild rebel of rock alive or dead? | date=2 tháng 6 năm 1996 | publisher=[[The Sunday Mirror]] | url= }}</ref> Cho đến nay vẫn chưa ai tìm thấy Edwards.<ref name="SH">{{chú thích báo news | first=Stephen P. | last=Helan | page=10 | title=Living With Ghosts | date=30 tháng 1 năm 2005|publisher=[[Sunday Herald]] }}</ref><ref>Price (1999), pp. 183–185.</ref> Manic Street Preachers không có động thái gì trong 6 tháng và quyết định giải thế nhóm được cân nhắc một cách nghiêm túc, nhưng với phúc lành của gia đình Edwards, các thành viên vẫn bước tiếp.<ref name="Price"/> Edwards được tuyên bố "[[khai tử]]" hợp pháp vào năm 2008 để cho phép cha mẹ quản lý tài sản của anh.<ref>{{chú thích báo| author =BBC staff reporter | title=Missing guitarist 'presumed dead' | date=24 tháng 11 năm 2008|publisher=BBC | url=http://news.bbc.co.uk/1/hi/wales/7745273.stm|accessdate=24 tháng 11 năm 2018}}</ref><ref>{{chú thích báo| last = Cartwright | first = Garth | title = Obituary: Richey Edwards | newspaper = [[The Guardian]] | date = 26 tháng 11 năm 2008 | url = https://www.theguardian.com/music/2008/nov/26/richey-edwards-manic-street-preachers | accessdate = 30 tháng 10 năm 2017}}</ref> Ban nhạc còn tri ân cựu thành viên này bằng cách dựng một chiếc microphone cho Edwards ở mọi buổi trình diễn nhạc sống.<ref name="UniEel">{{chú thích web |last1=<!Staff writers--> |title=The Disappearance of Richey Edwards: What Happened? |url=https://unieel.com/2018/01/07/the-disappearance-of-richey-edwards-what-happened/ |website=UniEel |accessdate=29 tháng 6 năm 2018 |date=7 tháng 1 năm 2018}}</ref>
 
===''Everything Must Go'' đến ''Lipstick Traces'' (1996–2003)===