Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sùng Khánh Hoàng thái hậu”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 31:
Sùng Khánh Hoàng thái hậu sinh ngày [[25 tháng 11]] (âm lịch), năm Khang Hi thứ 31 ([[1692]]), là người của dòng tộc [[Nữu Hỗ Lộc|Nữu Hỗ Lộc thị]] ở [[Núi Trường Bạch]], ngọc phả ghi chép kỳ tịch là [[Mãn Châu]] [[Bát Kỳ|Tương Hoàng kỳ]]. Gia tộc bà là một chi xa của đại gia tộc Nữu Hỗ Lộc của Hoằng Nghị công [[Ngạch Diệc Đô]], khai quốc công thần thời đầu Đại Thanh, được xưng là ''"Danh môn trung danh môn"'', cực kỳ hiển hách. [[Hiếu Chiêu Nhân hoàng hậu]] cùng [[Ôn Hi Quý phi]] đều là cháu nội của Ngạch Diệc Đô.
 
Tằng tổ phụ của bà là [[Tát Mục Cáp Đồ]] (萨穆哈图), đương thời là bá phụ của Hoằng Nghị công Ngạch Diệc Đô<ref>Có chung một tổ tiên là [[A Linh A Ba Nhan]] (阿灵阿巴颜), sinh ra Tát Mục Cáp Đồ cùng [[Đô Linh Ngạch Đô Đốc]] (都灵额都督). Vị Đô Linh Ngạch Đô Đốc chính là thân phụ của Ngạch Diệc Đô</ref>. Tát Mục Cáp Đồ sinh 2 con: [[Ngạch Diệc Đằng]] (额亦腾) và [[Ngô Nột Hách]] (吴讷赫). Ngạch Diệc Đằng sinh 3 con: [[Phật Tôn]] (佛荪), [[Ngô Lộc]] (吴禄) và [[Sát Mục Đạt]] (察穆达). Ngô Lộc sinh 2 con: [[Lăng Thái]] (凌泰) và [[Lăng Trụ]] (凌柱). Bà là con gái của Lăng Trụ, làm chức Điển nghi hàm Tứ phẩm, lúc này gia đình gần như là bình dân dù là thuộc Thượng tam kỳ, mẹ bà là Bành thị, con gái Bảo Trì huyện học sinh [[Bành Vũ Công]] (彭武功)<ref>根據《镶黄旗钮钴禄氏弘毅公家谱》的記載,孝聖憲皇后的母亲是宝坻县生员彭武功之女彭氏。在乾隆六年舉行七十寿辰時,高宗特賜“古稀人瑞”的匾额给身為外祖母的彭氏</ref>. Ngoài ra, trong nhà bà còn có 4 người anh em khác: [[Y Thông A]] (伊通阿), [[Y Tùng A Hòa]] (伊松阿和), [[Y Tam Thái]] (伊三泰) và [[Y Thân Thái]] (伊绅泰)<ref>孝聖憲皇后的曾祖父額宜騰是額亦都的堂兄弟,《寶坻縣志》記清高宗為外高祖母等人祭奠祭文,可知孝聖憲皇后的曾祖母為龍氏,祖父為吴禄,祖母則為乔氏。整個家族只有孝聖憲皇后之父凌柱入仕,擔任四品雍王府典儀,即负责仪制,仪节及其他杂物的府属官职。</ref>.
 
Tuy thuộc thị tộc Nữu Hỗ Lộc nhưng chi của gia đình bà là một chi họ hàng xa, trước khi nhập kỳ đã phân ra với nhà Ngạch Diệc Đô, nhập kỳ theo cũng chỉ là do họ hàng nên bị phân ở ['''Mãn Châu Tương Bạch kỳ'''; 满洲镶白旗]. Nên dĩ nhiên, nhánh họ của Sùng Khánh Hoàng thái hậu không thể hưởng vinh quang vốn có từ Hoằng Nghị công phủ Nữu Hỗ Lộc, mà chỉ là một nhà bình thường trong Tương Hoàng kỳ. Đến đời cha bà, gia đình sa sút đến mức bình dân vô dị, không khác thường dân là mấy. Trong gia tộc này, chỉ có cha bà Lăng Trụ xuất sĩ làm chức Điển nghi cho phủ Hoàng tứ tử. Chức Điển nghi này là dạng quan viên tầm trung, do xuất thân không cao quý nên Sùng Khánh Hoàng thái hậu Nữu Hỗ Lộc thị sau đó phải dùng thân phận [[Cách cách]] vào hầu Bối lặc [[Dận Chân]]. Thời điểm xác định bà vào hầu là năm Khang Hi thứ 43 ([[1704]]), khi ấy bà chỉ mới 13 tuổi.
 
Năm Khang Hi thứ 50 ([[1711]]), ngày [[13 tháng 8]] (tức ngày [[25 tháng 9]] dương lịch), Nữu Hỗ Lộc thị sinh hạ đứa con trai tên [[Hoằng Lịch]] - là con trai thứ tư của Ung Thân vương Dận Chân.