Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nhận dạng mẫu”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 7:
Việc phân loại (hay lược đồ mô tả) thường dựa vào sự có sẵn của một tập các mẫu mà đã được phân loại (hay miêu tả) sẵn. Tập các mẫu này được gọi là [[tập huấn luyện]] và chiến lược học nhằm phân loại mẫu vào một trong các lớp có sẵn được gọi là [[học có giám sát]]. Việc học cũng có thể là không có giám sát, theo nghĩa là hệ thống không được cung cấp các mẫu được đánh nhãn (phân loại) ''tiên nghiệm'', mà nó phải tự đưa ra các lớp để phân loại dựa vào tính ổn định trong thống kê của các mẫu.
 
Việc phân loại (hay lược đồ mô tả) thường dùng một trong các hướng tiếp cận sau: [[phân loại dùng thống kê|thống kê]] (hay lý thuyết quyết định), [[phân loại dùng cú pháp|cú pháp]] (hay cấu trúc). Nhận dạng mẫu dùng thống kê là dựa vòavào các đặc tính thống kê của các mẫu, chẳng hạn rằng các mẫu được tạo mởi một hệ thống [[xác suất]]. Nhận dạng dùng cấu trúc là dựa vào tương quan cấu trúc giữa các mẫu.
 
Các ứng dụng phổ biến là [[nhận dạng tiếng nói]] tự động, [[phân loại tài liệu|phân loại văn bản thành nhiều loại khác nhau]] (ví dụ: những thư điện tử nào là spam/non-spam), [[nhận dạng chữ viết tay|nhận dạng tự động các mã bưu điện viết tay]] trên các bao thư, hay [[nhận dạng khuôn mặt|hệ thống nhận dạng danh tính]] dựa vào mặt người. Ba ví dụ cuối tạo thành lãnh vực con [[phân tích ảnh]] của nhận dạng mẫu với đầu vào là các ảnh số.