Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Biệt động quân Việt Nam Cộng hòa”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Soạn thảo trực quan Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
...
Dòng 1:
{{Infobox Military Unit
|unit_name= BIỆT ĐỘNG CHI QUÂN<br>Việt Nam Cộng hòa
|image= [[Hình: Vietnamese Rangers SSI.svg|180px]]
|caption= Phù hiệu
Dòng 15:
}}
 
'''Biệt động chi quân''' hayViệt '''QuânNam biệtCộng độngHòa''' ([[Tiếng Anh]]: ''Vietnamese Rangers Corp'', '''VNRC''') là đơn vị bộ binh cơ động của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]], đồng thời là lực lượng tổng trù bị thuộc [[Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa]]. Biệt động chi quân được huấn luyện kĩ năng hành quân chiến đấu độc lập với các đơn vị bạn, tác chiến ở quy mô từ tiểu đội đến tiểu đoàn với nhiệm vụ giải tỏa áp lực địch trên địa bàn hoạt động, sử dụng lối đánh lấy du kích phản lại du kích cùng sự hỗ trợ của thiết xa vận, giang thuyền vận và trực thăng vận. Biệt động chi quân là binh chủng tinh nhuệ của [[Lục quân Việt Nam Cộng hòa]] chuyên dùng để đối phó với chiến tranh du kích cộng sản. Với khả năng cơ động của đốimình, phươngBiệt đông quân luôn là lực lượng ra tay phản kích nhanh quân địch trước tiên, không để các đơn vị bạn bị bất ngờ và rơi vào tình thế bất lợi, dẫn đến mất tinh thần và ý chí chiến đấu. Kể từ khi được thành lâp, biệt động chi quân là lực lượng dự bị đắcưu lực của [[Việt Nam Cộng hòa]] sau [[Binh chủng Nhảy dù Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn Nhảy dù]] và [[Thủy quân lục chiến Việt Nam Cộng hòa|Thủy quân lục chiến]]. Bộ tự lệnh Biệt động chi quân đặt tại [[Trại Đào Bá Phước]]. Đơn vị quân biệt động quân buông súng tan hàng cuối cùng trong [[Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975]] khi đang bảo vệ bộ tư lệnh [[Biệt khu Thủ đô]].
 
Thánh Tổ: [[Phùng Hưng|Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng]].
 
==Tên gọi==
Trong khái niệm thuật ngữ quân sự Việt Nam Cộng hòa, Biệt động chi quân tương ứng với Lực lượng Ranger trong [[Lục quân Hoa Kỳ]]. Ngoài ra, một số lực lượng chuyên biệt khác có đặc điểm gần giống như Biệt động chi quân nhưng có chức năng hoạt động khác như [[Biệt kích]] (Commando), Lực lượng Đặc biệt (Special Force) Biệt cách dù (Airbone Ranger). Hầu hết các lực lượng này đều có nguồn gốc từ Biệt động chi quân và về sau hình thành những Binh chủng riêng biệt trong [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]].
 
==Tiền thân==
Dòng 30:
 
==Thành lập Binh chủng và đảo chính 1960==
[[Hình: ARVN Rangers defend Saigon, Tet Offensive.jpg|nhỏ|phải|180px|<center>TrậnBiệt đông quân VNCH phản kích trong Biến Cố Mậu Thân<center>]]
 
Để tăng cường khả năng tác chiến của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Quân đội Việt Nam Cộng hòa]] trước chiến thuật du kích của những người Cộng sản kể từ sau phong trào [[Phong trào Đồng khởi|Đồng khởi]], ngày 16 tháng 2 năm 1960, Tổng thống Ngô Đình Diệm chỉ thị thành lập các Đại đội Biệt động chi quân, tuyển chọn binh sĩ của các Sư đoàn Bộ binh và Quân khu, Binh chủng Nhảy dù và Thủy quân Lục chiến, huấn luyện kỹ năng hành quân độc lập, tác chiến chống du kích. Một số sĩ quan người Việt thuộc Liên đoàn Quan sát số I được chuyển sang làm thành phần nòng cốt của Biệt động chi quân. Chiến thuật tác chiến ban đầu của các Đại đội Biệt động chi quân chủ yếu là trang bị vũ khí gọn nhẹ với quần áo bà ba đen, cơ động truy kích và tiêu diệt các đơn vị du kích Cộng sản hoạt động trên địa bàn.
 
Trung tâm Huấn luyện Biệt động chi quân đầu tiên là trường Biệt động đội Đồng Đế, đặt tại Nha Trang, về sau đổi thành Trung tâm Huấn luyện Biệt động chi quân Nha Trang, chuyên huấn luyện cho sĩ quan và hạ sĩ quan thuộc Quân đoàn II. Cuối tháng 4 năm 1960, hai Trung tâm huấn luyện Biệt động chi quân mới được thành lập, một tại [[Đà Nẵng]] để huấn luyện cho sĩ quan và hạ sĩ quan thuộc Quân đoàn I, một tại Sông Mao huấn luyện cho sĩ quan, hạ sĩ quan thuộc Quân đoàn III và Quân đoàn IV. Ngoài ra, còn có 2 Trung tâm Huấn luyện khác là Trung Hòa và Thất Sơn, chuyên huấn luyện tác chiến cấp Đại đội. Khác với các toán Biệt kích của Liên đoàn Quan sát số I do các cố vấn [[Cơ quan Tình báo Trung ương (Hoa Kỳ)|CIA]] trực tiếp quản lý, điều hành và huấn luyện, các toán Biệt động chi quân do các sĩ quan và hạ sĩ quan người Việt huấn luyện với sự trợ giúp của các cố vấn quân sự của Phái bộ Cố vấn Quân sự Mỹ ''(Military Assistance Advisory Group'' - '''MAAG''').
 
Ngày 1 tháng 7 năm 1960, Lực lượng Biệt động chi quân được chính thức thành lập, do Thiếu tá Lữ Đình Sơn làm Chỉ huy trưởng. Quân phục chính thức của Lực lượng Biệt động chi quân cũng chuyển sang quân phục rằn ri đốm hoa với mũ nồi nâu. Mặc dù hình thành Bộ chỉ huy riêng, nhưng trên thực tế, các Đại đội Biệt động chi quân tác chiến theo sự chỉ huy của các Tư lệnh Sư đoàn hoặc Tiểu khu trưởng tại địa bàn hoạt động. Bộ Chỉ huy Trung ương chỉ có nhiệm vụ quản trị, điều hành, bổ sung quân số, huấn luyện, trang bị, thanh tra, theo dõi, thống kê, báo cáo các hoạt động của các đơn vị Biệt động chi quân trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa.
 
Do tính chất này, khi cuộc [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1960|đảo chính ngày 11 tháng 11 năm 1960]] nổ ra, mặc dù Chỉ huy trưởng Biệt động chi quân là Thiếu tá Lữ Đình Sơn bị 2 cấp phó là Thiếu tá [[Phan Trọng Chinh]] và Đại úy Phan Lạc Tuyên tước quyền chỉ huy và nắm lấy quyền điều động một số Đại đội Biệt động chi quân gần Đô thành [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]] tham gia đảo chính, hầu hết các đơn vị Biệt động chi quân khác vẫn thuộc quyền của các đơn vị Sư đoàn và Tiểu khu, vẫn trung thành với Tổng thống Diệm và tham gia hành quân phản đảo chính. Nhờ vào hành động này mà Thiếu tá Lữ Đình Sơn không bị truy cứu trách nhiệm và vẫn được giữ chức Chỉ huy trưởng cho đến năm 1962.
 
==Cải tổ lực lượng==
Mặc dù vậy, hoạt động của những người Cộng sản vẫn không ngừng tăng lên. Ngày 15 tháng 2 năm 1961, các đơn vị vũ trang của họ thống nhất thành [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]], thành lập các đơn vị quân sự chính quy. Trước quy mô chiến tranh mở rộng, ngày 1 tháng 8 năm 1961, các Trung tâm Huấn luyện Đà Nẵng, Nha Trang, Sông Mao được hợp nhất thành Trung tâm Huấn luyện Biệt động chi quân Dục Mỹ. Các trung tâm Trung Hòa và Thất Sơn cũng được sát nhập thành Trung tâm Huấn luyện Biệt động chi quân Trung Lập để có thể huấn luyện quy mô cấp Tiểu đoàn. Đầu năm 1962, các Đại đội Biệt động chi quân thuộc quyền các Tiểu khu được thu hồi để thành lập 3 Tiểu đoàn đặt dưới quyền các Quân khu là Tiểu đoàn 10 (Quân khu 1), Tiểu đoàn 20 (Quân khu 2) và Tiểu đoàn 30 ([[Biệt khu Thủ đô]]), sau đổi tên thành Tiểu đoàn 11, 21 và 31 để tương ứng với thứ tự từng vùng chiến thuật.
 
Sau những rối ren chính trị, từ năm 1965, Chính quyền [[Việt Nam Cộng hòa]] đi vào sự ổn định tương đối. Đến cuối năm 1965, các Đại đội Biệt động chi quân độc lập còn lại cũng được bổ sung và tổ chức lại thành 17 Tiểu đoàn Biệt động chi quân. Từ năm 1966, Lực lượng Biệt động chi quân tiếp tục được cải tổ để thành lập các Liên đoàn Biệt động chi quân (gồm các Liên đoàn 1, 2, 3, 4, và 5), đặt trực thuộc các Quân đoàn. Nhiệm vụ của Lực lượng Biệt động chi quân cũng thay đổi, trở thành các đơn vị trừ bị, có khả năng cơ động nhanh, đối phương không còn là các toán du kích nhỏ mà là các đơn vị chủ lực của Quân Giải phóng cấp Trung đoàn. Liên đoàn 6 được thành lập vào năm 1968.
 
Khi xây dựng lực lượng này, ý đồ của Bộ tham mưu VNCh mong muốn BĐQ trở thành đơn vị có thể thay thế đươc quân Mỹ, làm giảm tối đa sự phụ thuộc. BĐQ sớm trở thành đơn vị trù bị cấp chiến thuật, bên cạnh 2 đơn vị Dù và TQLC Vì vậy, binh sĩ tham gia biệt động chi quân đều là tình nguyện, ngoài mức lương còn được lãnh "tiền tử" (tiền bảo hiểm) hàng năm khá cao.
 
Tính đến giữa năm 1969, Lực lượng Biệt động chi quân được tổ chức 6 Liên đoàn, trong đó có Liên đoàn 5 và 6 là Lực lượng Tổng trừ bị cho Bộ Tổng tham mưu, dưới sự điều hành của Bộ chỉ huy Biệt động chi quân Trung ương. Các Liên đoàn 1, 2, 3 và 4 là đơn vị Tổng trừ bị cho 4 Quân khu, với sự điều hành của 4 Bộ chỉ huy Biệt động chi quân Quân khu và dưới quyền điều động trực tiếp của các Tư lệnh Quân đoàn I, II, III và IV. Năm 1973, thành lập Liên đoàn 7 làm đơn vị Tổng trừ bị cho Bộ Tổng tham mưu.
 
==Biệt động chi quân Biên phòng==
*''Xem thêm'': [[Lực lượng Dân sự chiến đấu|Lực lượng Dân sự Chiến đấu]]
 
Dòng 56:
Chương trình này dẫn đến việc hình thành các trại Biệt kích Dân sự ở Cao nguyên, chuyên thực hiện các nhiệm vụ phá hoại, ngăn chặn đường xâm nhập của các đơn vị [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] từ Bắc vào Nam. Tháng 2 năm 1962, các đơn vị Biệt kích Dân sự này chính thức hợp thành [[Lực lượng Dân sự chiến đấu|Lực lượng Dân sự Chiến đấu]] ''(Civilian Irregular Defense Group - '''CIDG''')'', do CIA trực tiếp thực hiện, nằm ngoài sự quản lý của Chính quyền [[Việt Nam Cộng hòa]]. Ngày 23 tháng 77 năm 1962, theo Quyết định 57 An ninh Quốc gia của [[Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ]], CIA sẽ bàn giao tất cả những hoạt động bán quân sự, kể cả Lực lượng Dân sự Chiến đấu, cho [[Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ tại Việt Nam|Bộ Tư lệnh Viện trợ Quân sự Mỹ tại Việt Nam]].
 
Sự hình thành một Lực lượng Biệt kích Dân sự vũ trang không chịu sự kiểm soát của chính quyền [[Việt Nam Cộng hòa]] cũng dẫn đến những hệ lụy có tác động không nhỏ. Do mâu thuẫn sắc tộc, sự thiếu quan tâm, thậm chí kỳ thị, của Chính quyền [[Việt Nam Cộng hòa]] đã góp phần dẫn đến việc nhiều Biệt kích quân người dân tộc thiểu số tại Việt Nam đang chiến đấu cho [[Lực lượng biệt kích Hoa Kỳ và đồng minh trong Chiến tranh Việt Nam|Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ]] và [[Lực lượng Dân sự chiến đấu]] đã tham gia Phong trào ly khai [[BAJARAKA]]. Dù sao, dưới sự dàn xếp của người Mỹ, những mâu thuẫn tạm thời chưa bùng nổ lớn. Các Biệt kích quân người dân tộc thiểu số tại Việt Nam vẫn chiến đấu dưới quyền chỉ huy của người Mỹ cho đến tận năm 1970, khi các đơn vị thuộc Lực lượng Dân sự Chiến đấu được người Mỹ bàn giao một phần cho [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]] và được cải tổ thành Lực lượng [[Biệt động quân Biên phòng|Biệt động chi quân Biên phòng]].
 
==Phát triển thành đại đơn vị==
Cùng với sự tiếp nhận và tái tổ chức các trại Biệt kích thuộc Lực lượng Dân sự Chiến đấu thành các Tiểu đoàn Biệt động chi quân Biên phòng, cũng như các Liên đoàn thuộc [[Lực lượng đặc biệt (Việt Nam Cộng hòa)|Lực lượng đặc biệt]] vừa bị giải thể thành Liên đoàn Biệt động chi quân thứ 7. Tính đến cuối năm 1971, lực lượng Biệt động chi quân có 21 Tiểu đoàn Biệt động chi quân chính quy và 37 Tiểu đoàn Biệt động chi quân Biên phòng. Mỗi Quân khu đều tổ chức Bộ chỉ huy Biệt động chi quân của Quân đoàn, chỉ huy 1 Liên đoàn Biệt động chi quân chính quy và một số Tiểu đoàn Biệt động chi quân Biên phòng. Riêng các Liên đoàn 5, 6, 7 do Bộ chỉ huy Biệt động chi quân Trung ương trực tiếp chỉ huy.
 
Trước tình hình chiến tranh khốc liệt, và quân Mỹ rút khỏi Việt Nam, tháng 9 năm 1973, Đại tướng [[Cao Văn Viên]] đưa ra kế hoạch tái tổ chức lại 58 Tiểu đoàn Biệt động chi quân (kể cả Biệt động chi quân Biên phòng) thành 45 Tiểu đoàn, bỏ các đồn trại Biên phòng (trừ một số các đồn trại ở những nơi xung yếu) để hình thành Lực lượng trừ bị cho các Quân đoàn và Tổng trừ bị cho Trung ương. Theo đó, 45 Tiểu đoàn Biệt động chi quân tổ chức thành 15 Liên đoàn Tiếp ứng, trong đó có 2 Liên đoàn (5 và 6) Tổng trừ bị (sau tăng thêm Liên đoàn 4 rút từ Quân đoàn IV về). Các Liên đoàn này được bố trí như sau:
*Quân khu 1: Liên đoàn 11, 12 (Liên đoàn 1 cũ), 14 và 15<ref>Đây là các liên đoàn trừ bị cho Quân đoàn I, do Bộ chỉ huy BĐQ quân khu trực tiếp điều hành dưới sự điều động của tư lệnh quân đoàn, đồng thời cũng là các đơn vị luôn sẵn sàng tiếp ứng hoặc tăng phái cho các sư đoàn bộ binh, các tiểu khu trực thuộc quân khu.</ref>
*Quân khu 2: Liên đoàn 21, 22, 23 (Liên đoàn 2 cũ), 24, và 25<ref>Nhiệm vụ giống như các liên đoàn ở quân khu 1</ref>
Dòng 67:
*Các Liên đoàn 4, 6 và 7 là Lực lượng Tổng trừ bị cho Bộ Tổng tham mưu.
 
Lực lượng Biệt động chi quân vào những năm cuối của cuộc [[Chiến tranh Việt Nam]] liên tục được tăng cường, nhằm tổ chức một lực lượng trừ bị mạnh để thay thế cho [[Sư đoàn Nhảy dù Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn Dù]] và [[Sư đoàn Thủy quân Lục chiến Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn Thủy quân lục chiến]] đang bị mắc kẹt với chiến trường Quân khu I. Cuối năm 1974, thành lập Liên đoàn 8, tháng 3 năm 1975 Liên đoàn 9 được thành lập. Một dự định tổ chức các đơn vị Biệt động chi quân thành cấp Sư đoàn để làm lực lượng trừ bị chiến lược đã được hình thành. Tuy nhiên tình hình đã quá trễ.
 
==Tan rã==
Lực lượng [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] và [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] đã đánh tan rã binh lực của 2 Quân đoàn và 2 Sư đoàn Tổng trừ bị của Việt Nam Cộng hòa. Lực lượng Biệt động chi quân chỉ còn lại 8 Liên đoàn, dự kiến sẽ tổ chức thành 3 Sư đoàn Biệt động chi quân, đặt dưới quyền chỉ huy của Bộ Tư lệnh Biệt động chi quân do [[Thiếu tướng]] [[Đỗ Kế Giai]] làm Tư lệnh, Đại tá [[Trần Công Liễu (Đại tá, Quân lực VNCH)|Trần Công Liễu]]<ref>Đại tá Trần Công Liễu, sinh năm 1932 tại Bà Rịa, hiện nay định cư ở Pháp.</ref> làm Tham mưu trưởng. Hai Bộ Tư lệnh cấp Sư đoàn được thành lập gồm Sư đoàn 101 do Đại tá [[Nguyễn Thành Chuẩn (Đại tá, Quân lực VNCH)|Nguyễn Thành Chuẩn]]<ref>Đại tá Nguyễn Thành Chuẩn, sinh năm 1930 tại Vĩnh Long, mất năm 2008 ở Pháp.</ref> làm Tư lệnh, và Sư đoàn 106 do Đại tá [[Nguyễn Văn Lộc (Đại tá, Quân lực VNCH)|Nguyễn Văn Lộc]]<ref>Đại tá Nguyễn Văn Lộc, sinh năm 1932 tại Ba Xuyên. Tốt nghiệp khóa 5 Võ bị Đà Lạt, nguyên Tham mưu trưởng Bộ chỉ huy Biệt động quân Trung ương 1973-1974.</ref> làm Tư lệnh.
 
Tuy nhiên, tốc độ thành lập các Sư đoàn này không theo kịp với tốc độ hành quân của đối phương. Một nguyên nhân quan trọng nữa, là tình hình chiến cuộc ngày càng bất lợi làm suy giảm tinh thần binh sĩ, khiến họ chỉ muốn lo cho gia đình và quan tâm đến việc đào ngũ hơn là cầm súng. Hiện tượng đào ngũ xảy ra nhiều nhất ngay tại lực lượng BĐQ tinh nhuệ này. Ngoài ra, khi bị cắt giảm viện trợ, chính phủ rất khó khăn khi trả tiền cho binh sĩ.
 
Các đơn vị Biệt động chi quân chiến đấu trong những giờ cuối cùng của chiến tranh với đội hình bị chia cắt thành các tiểu đoàn, không thể chốngđương cự nổi với lựcđội lượnghình tương đương với một tậpquân đoàn quân hỗn hợp áp đảo của đối phương, nên lần lượt tan rã ngoài vòng đai Sài gòn. Đơn vị buông súng rã ngũ cuối cùng trưa 30 tháng 4 năm 1975 là Tiểu đoàn 43, sau khi nhận được lệnh đầu hàng từ Tổng thống [[Dương Văn Minh]] và Tư lệnh Đỗ Kế Giai.
 
==Chỉ huy trưởng qua các thời kỳ==