Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ngô Quang Trưởng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 37:
Trung tuần tháng 8 năm 1970, ông nhận lệnh bàn giao Sư đoàn 1 Bộ binh lại cho Chuẩn tướng [[Phạm Văn Phú]]. Ngay sau đó, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân đoàn IV và Quân khu 4 thay thế Thiếu tướng [[Ngô Du|Ngô Dzu]] chuyển ra Cao nguyên miền Trung giữ chức vụ Tư lệnh Quân đoàn II và Quân khu 2. Ngày Quốc khánh Đệ nhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm 1971, ông được thăng cấp [[Trung tướng]] tại nhiệm.
 
Đầu tháng 5 năm 1972, ông được lệnh bàn giao Quân đoàn IV và Quân khu 4 lại cho Thiếu tướng [[Nguyễn Vĩnh Nghi]] (nguyên Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh) để đi nhận chức vụ Tư lệnh Quân đoàn I và Quân khu 1<ref>Khi tướng Trưởng nhậm chức vụ Tư lệnh Quân đoàn I, Bộ tư lệnh Quân đoàn gồm các sĩ quan chỉ huy và tham mưu cao cấp:<br>-Tư lệnh phó: Trung tướng [[Lâm Quang Thi]], kiêm Tư lệnh tiền phương Quân đoàn (SN 1932, Võ bị Đà Lạt K3)<br>-Tư lệnh phó lãnh thổ:-Thiếu tướng [[Hoàng Văn Lạc]] (SN 1927, Võ bị Huế K2)<br>-Tham mưu trưởng: Đại tá [[Hoàng Mạnh Đáng (Đại tá, Quân lực VNCH)|Hoàng Mạnh Đáng]] (Sinh năm 1930 tại Quảng Bình, tốt nghiệp trường Võ bị Địa phương Nam Việt Vũng Tàu)<br>-Chỉ huy Pháo binh: Đại tá [[Phạm Kim Chung (Đại tá, Quân lực VNCH)|Phạm Kim Chung]] (Sinh năm 1929 tại Kiến An, tốt nghiệp khóa 6 Võ bị Đà Lạt)<br>-Trưởng phòng 2: Đại tá [[Phạm Văn Phô (Đại tá, Quân lực VNCH)|Phạm Văn Phô]] (Sinh năm 1933 tại Cần Thơ, tốt nghiệp khóa 8 Võ bị Đà Lạt)<br>-Trưởng phòng 3: Đại tá [[Lê Bá Khiếu (Đại tá, Quân lực VNCH)|Lê Bá Khiếu]] (Sinh năm 1934 tại Thừa Thiên, tốt nghiệp khóa 4 phụ Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức tại Đà Lạt)<br>-Cùng thời điểm nói trên, xảy ra sự mâu thuẫn giữa tướng Trưởng và hai tướng Tư lệnh 2 đơn vị Tổng trừ bị: [[Lê Nguyên Khang]] (Tư lệnh Sư đoàn Thuỷ Quân Lục chiến), [[Dư Quốc Đống]] (Tư lệnh Sư đoàn Nhảy Dù), vì hai vị này đã là Trung tướng thực thụ và thuộc diện tướng đàn anh của tướng Trưởng trong khi tướng Trưởng chỉ là Trung tướng nhiệm chức. Do đó, khi bị đặt dưới quyền chỉ huy của tướng Trưởng, 2 vị tướng này tỏ vẻ bất mãn (Tướng Khang lên Chuẩn tướng và Thiếu tướng năm 1964, Trung tướng năm 1966. Tướng Đống lên Chuẩn tướng năm 1965, Thiếu tướng năm 1968 và Trung tướng năm 1970. Trong khi vào thời điểm năm 1964 tướng Trưởng mới là Thiếu tá và năm 1965 mới lên Trung tá). Để giải quyết mâu thuẫn này Tổng thống Thiệu liền ký quyết định phong Trung tướng thực thụ cho tướng Trưởng. Sau đó thuyên chuyển tướng Khang về Bộ Tổng Tham mưu giữ chức vụ Tổng thanh tra Quân lực, đồng thời bổ nhiệm Đại tá Bùi Thế Lân (Tư lệnh phó) làm Tư lệnh Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Trung tuần tháng 11 năm 1972, bổ nhiệm Đại tá Lê Quang Lưỡng Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 1 Nhảy Dù đang Xử lý Thường vụ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn Nhảy Dù được chính thức làm Tư lệnh thay thế Trung tướng Đống.</ref> thay thế Trung tướng [[Hoàng Xuân Lãm]].<ref>Thực tế, tướng [[Hoàng Xuân Lãm]] bị cách chức Tư lệnh Quân đoàn I và Quân khu 1 vì đã để mất tỉnh Quảng Trị vào tay Quân Giải phóng miền Nam. Ông được điều về Trung ương làm Phụ tá cho Tổng trưởng Quốc phòng, chỉ là một chức vụ không quan trọng giống như "ngồi chơi xơi nước" vậy.</ref> Thời điểm này, Quân đoàn I được tăng cường toàn bộ Lực lượng Tổng trừ bị<ref>Lực lượng Tổng trừ bị gồm Sư đoàn Nhảy dù và Sư đoàn Thủy quân Lục chiến cùng các Liên đoàn Biệt Động quân là Lực lượng Tổng trừ bị của Quân khu.</ref> của Quân lực Việt Nam Cộng hòa và được yểm trợ từ xa bởi [[Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ|Hạm đội Đệ thất]] của Hoa Kỳ ở ngoài khơi biển Đông đã đẩy lui và tái chiếm Cổ thành Quảng Trị và các phần đất bị chiếm ở phía nam sông Thạch Hãn, gây nhiều thiệt hại nặng cho các đơn vị của đối phương. Tuy nhiên, Quân lực Việt Nam Cộng hòa cũng bị tổn thất nặng trong chiến dịch và không thể tái chiếm lại cảng Cửa Việt và nửa phía bắc tỉnh Quảng Trị.
 
==Năm 1975==