Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trạm vũ trụ Hòa Bình”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi qua ứng dụng di động Sửa đổi từ ứng dụng iOS
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 13:
| crew = 3
| launch = 1986–1996
| launch_pad = [[Baikonur-Bãi Cosmodromephóng Site 200|LC-200/39]], and81; [[BaikonurSân Cosmodromebay Site 81|LC-81/23]],trụ [[Baikonur, Cosmodrome]]<brKazakhstan />[[Kennedy(tên Spacelửa Center Launch Complex 39|LCProton-39A]],<br />[[Kennedy Space Center]]K)
-Tổ hợp phóng tên lửa LC-39A,B; Trung tâm vũ trụ Kennedy, Mỹ (Tàu con thoi)
| reentry = 2001-03-23<br />05:50:00 [[Giờ phối hợp quốc tế|UTC]]
| mass = 124,340 kg<br />(274,123 [[Pound (khối lượng)|lb]])
| length =19m (Từ Mô-đun lõi đến đuôi Mô-đun Kvant-1)
| length =
| width =31m (từ Mô-đun Priroda đến Mô-đun cập bến)
| width =
| height =
| volume = 350 m³
| pressure =
| perigee = 385 km (208 [[nautical mile|nmi]])
| apogee = 393 km (212 nmi)
| inclination = 51.6 [[Degree (angle)|degrees]]độ
| altitude =
| speed =
| period = 88.15 [[minute]]sphút
| orbits_day = 16.34
| in_orbit = 5,519 daysngày
| occupied = 4,592 daysngày
| orbits = c.86,331
| NSSDC_ID = 1986-017A
Hàng 36 ⟶ 37:
| configuration_image = Mir diagram.svg
| configuration_size =
| configuration_caption = Cấu hình của trạm Mir vào năm 1996 (Kí hiệu: xanh lá: Mô-đun lõi; tím nhạt: Mô-đun Kvant-1; xanh dương: Mô-đun Kvant-2; xám: Mô-đun Spektr; đỏ: Kristall; nâu: Mô-đun cập bến; cam nhạt: Mô-đun Priroda; màu da: Tàu vũ trụ Soyuz-TM; màu hồng: tàu vận tải Tiến bộ-M.
| configuration_caption = May 1996 configuration of ''Mir''.
}}
'''Trạm vũ trụ Hòa Bình''', hay '''trạm vũ trụ Mir''', ([[tiếng Nga]]: Мир - ''Mir'' - có nghĩa là "hòa bình"), là một trạm nghiên cứu được phóng lên [[vũ trụ]] vào ngày [[19 tháng 2]] năm [[1986]], chuyên chú vào các thí nghiệm [[khoa học]] phục vụ mục đích hòa bình và sự phát triển của con người. Mir chấm dứt hoạt động ngày [[23 tháng 3]] năm [[2001]] và bị phá vỡ khi tiếp xúc khí quyển.
 
== ĐặcCác điểmmô-đun của trạm ==
 
* Mô-đun chính của Mir (DOS-7) (90 m³), còn gọi là module lõi, là "Trung tâm điều khiển bay và rèn luyện thể lực" cho các [[nhà du hành vũ trụ|phi hành gia]]
*'''Mô-đun lõi của Mir''' (DOS-7) là trung tâm điều khiển bay và rèn luyện thể lực cho các [[nhà du hành vũ trụ|phi hành gia]]. Mô-đun được xây dưng dựa trên nên tảng của các trạm vũ trụ [[Salyut]] trước nó, nhưng có đặc điểm khác là có giao điểm (node) 5 cổng nối phía trước của mô-đun, nơi các mô-đun sau này và các [[tàu vũ trụ Soyuz]] và [[Tàu vận tải Tiến bộ|Tiến bộ]] cập bến. Vì mọi hoạt động của trạm Mir không còn tập trung vào một mô-đun duy nhất nữa nên mô-đun lõi rất rộng rãi và cho phép mô-đun đặt 2 buồng ngủ và nhiều máy tính hơn các trạm Salyut trước. Mô-đun lõi còn có thêm một cổng nối ở phía sau, sau này mô-đun Kvant-1 kết nối ở cổng này.
* Mô-đun phụ '''Kvant-1''' (Квант - Quantum - Lượng tử - 1), với [[thể tích]] 40 m³, là mô-đun phục vụ nghiên cứu về [[vật lý học|vật lý]] và [[thiên văn học]]. NơiCác đây,thiết cácbị khoa học gồm [[kính viễn vọng]] đãtia phóngX, tầmkính nhìnviễn vềvọng phíatia rìacực tím, trụ1 đểmáy nhậnảnh biếtgóc sựrộng, cocác giãnthí củanghiệm tia trụX saunăng [[Vụlượng Nổ Lớn]]. Việc hình thànhcaohủyhệ diệtthống của cáctia [[thiên hà]] trong vũ trụ cũng được quan sát nơi đâyX/gamma. Mô-đun đồng thời mang theo thiết bị [[điện di]] Svetlana, 6 con quay hồi chuyển để điều chỉnh tư thế của trạm, hệ thống tạo khí ôxi Elektron, hệ thống loại bỏ khí CO2 Vika. Mô-đun cũng có một cổng nối phía sau để các tàu vũ trụ Soyuz và Tiến bộ cập bến.
* Mô-đun phụ '''Kvant-2''' (Квант-2) lại có nhiệm vụ khác. Đó là nơi chứa thức uống, [[ôxy|ôxi]] và thực phẩm cho các nhà du hành. Nó có một cánh cửa giúp cho các nhà du hành từ trạm bước đến và đi bộ trong không gian với tình trạng không trọng lực. Nhiều tình huống bắt buộc họ phải ra ngoài như: sửa chữa các tấm hỗ trợ hoạt động cho các cánh tay robot... Mô-đun này còn có nhiệm vụ quan sát Trái Đất. Cũng chính nơi đây, các nhà khoa học đã khám phá ra [[lỗ hổng tầng ozone]] ở [[Nam Cực]], rộng 20 triệu km². Từ đây, người ta cũng có thể quan sát những vụ [[cháy rừng]] khổng lồ ở [[Indonesia]], [[Brasil]] hay [[Bắc Mỹ]]. Ngoài ra còn có thể dự báo đường đi của một số cơn [[bão]] như Elizabeth, Linda... hình thành trên [[Thái Bình Dương]].
* Mô-đun '''Kvant-2''' (Квант-2) được chia làm 3 khoang: khoang khóa khí (airlock) để các phi hành gia chuẩn bị đi bộ ngoài không gian, khoang hàng hóa và khoang thí nghiệm. Mô-đun mang theo một thiết bị hỗ trợ các phi hành gia thực hiện đi bộ ngoài không gian có tên là Ikar, hệ thống tái chế nước từ nước tiểu, một vòi tắm, hệ thống chứa nước Rodnik và 6 con quay hồi chuyển để sát nhập vào hệ thống con quay có trước của mô-đun Kvant-1. Các dụng cụ khoa học gồm: một máy ảnh độ phân gian cao, phổ quang kế, cảm biến tia X, thí nghiệm dòng chảy chất lỏng Volna-2 và hệ thống Inkubator-2 dùng để ấp ủ và nuôi lớn chim cút.
* Mô-đun '''Spektr''' (Спектр - Spectrum - Phổ quang) làm nhiệm vụ cung cấp [[năng lượng]] cho toàn trạm không gian. Nó có hai tấm pin mặt trời xòe ra như hai cánh [[bướm]] bay trong vũ trụ với [[công suất]] 7000W. Có một sự cố đã xảy ra khi [[tàu vận tải Tiến bộ|tàu vận tải Progress]] cập bến Mir không chuẩn xác vào năm 1997, đâm thẳng vào mô-đun và khiến nó không thể sử dụng được.
* Mô-đun '''Spektr''' (Спектр - Spectrum - Phổ quang) gồm bốn tấm pin năng lượng mặt trời xếp theo hình cánh bướm, là nơi sản xuất khoảng hơn một nửa điện năng của trạm Mir. Nó là nơi sống của các phi hành gia Mỹ lên thăm trạm Mir và chứa các thí nghiệm khoa học của NASA. Mô-đun cũng là nơi quan sát Trái Đất với các thiết bị thí nghiệm mặt đất và khí quyển; và có khoang khóa khí nhỏ để đưa các thí nghiệm khoa học ra ngoài khoảng không vũ trụ. Một sự cố đã xảy ra khi [[tàu vận tải Tiến bộ|tàu vận tải Progress]] cập bến Mir không chuẩn xác vào năm 1997, đâm thẳng vào mô-đun và khiến nó bị tụt áp suất, không thể sử dụng được.
* Mô-đun '''Kristall''' (Кристалл - Crystal - Pha lê) là nơi nghiên cứu chế biến và xử lý vật liệu trongvới các trụ,lò chế biến; quan sát thiên văn; và nghiên cứu công nghệ sinh học với đơn vị [[điện di]] Aniur. Mô-đun này đồng thời dự kiếnthêm 2 cổng nối đặc biệt, nơi đểdự kiến tàu con thoi Buran của Liên Xô cập bến, nhưng sau này chương trình Buran bị hủy bỏ và các tàu[[Tàu con thoi]] của Mỹ cập bến thay nó trong chương trình hợp tác vũ trụ Nga-Mỹ: [[:en:Shuttle–Mir_Program|Tàu con thoi-Mir.]] (Shuttle-Mir)
* Mô-đun '''Priroda''' (Природа - Nature - Thiên Nhiên) là mô-đun viễn thám tài nguyên Trái Đất. Các thí nghiệm viễntrên thámmô-đun được cung cấp bởi 12 nước, bao hàm các loạivùng sóngphổ quang như vi sóng, hồng ngoại,...Mô-đun có một rađa khẩu độ tổng hợp lớn gắn ở bên ngoài mô-đun.
* Mô đun kết nối '''Stykovochnyy Otsek'''
*'''Mô-đun cập bến''' (Стыковочный Отсек - Stykovochnyy Otsek - Docking Module) là mô-đun dùng để các Tàu con thoi của Mỹ cập bến vào trạm dễ dàng hơn. Nếu trước kia phải đổi vị trí mô-đun Kristall để Tàu con thoi cập bến vì vướng tấm pin năng lượng mặt trời của mô-đun lõi, thì với mô-đun này được gắn vào cổng nối bên kia của Kristall thì Tàu con thoi có thể kết nối an toàn với trạm Mir mà không cần thay đổi cấu hình của trạm. Đây là mô-đun duy nhất được phóng bởi Tàu con thoi - các mô-đun còn lại do tên lửa Proton-K của Liên Xô (sau này Nga) phóng lên.
 
==Kỉ lục ==
 
Suốt 15 năm bay vòng quanh Trái Đất với 23.000 thí nghiệm khoa học. Đây là kỉ lục độc nhất của ngành [[hàng không vũ trụ]] [[thế kỷ 20|thế kỉ 20]]. ĐónTrạm đã đón nhận 104 lượt phi hành gia từ nhiều quốc gia khác nhau, đa phần là phi hành gia Nga và Mỹ, đến làm nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Đợt lưu trú dài ngày nhất trên Mir, và cũng là kỉ lục chuyến bay vũ trụ dài nhất của một con người là của phi hành gia Nga [[Valeri Vladimirovich Polyakov]] (437 ngày). Mir cũng không thể thoát một số tai nạn khi thực hiện sứ mạng: hỏa hoạn (2/1997), mất điện do va chạm với [[tàu vận tải Tiến bộ]]̣ (6/1997), mất liên lạc với mặt đất suốt hai tháng (2000). Đầu năm 2001, Nga quyết định đưa Mir về Trái Đất vì nó tồn tại quá lâu, phục vụ nhân loại gấp ba lần thời hạn thiết kế ban đầu là 5 năm; và dọn đường cho [[Trạm vũ trụ Quốc tế]] (ISS). Trước khi về Trái Đất, người ta cũng khá lo ngại về trường hợp Mir có thể gây ra những thảm họa khi nó rơi xuống các khu dân cư hay [[thành phố]] lớn. Nhưng điều này không xảy ra, Mir đã được cố ý phá vỡ khi gia nhập khí quyển và các phần vỡ đã chọn một diện tích 1500&nbsp;km² trên vùng biển Nam Thái Bình Dương để làm phần mộ của mình vào ngày 23 tháng 3 năm 2001.
 
==Chú thích==
Hàng 57 ⟶ 59:
==Tham khảo==
http://www.russianspaceweb.com/mir.html
 
== Liên kết ngoài ==
{{thể loại Commons-inline|Mir}}