Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thành Tân Sở”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n nhỏ
Cập nhật
Dòng 1:
[[Tập tin:Sơ đồ thành cổ Tân Sở.svg |nhỏ|phải|300px|Thành Tân Sở (dựa theo bản vẽ của giáo sĩ A.Delvaux)]]
 
'''Thành Tân Sở''' hay '''Sơn phòng Tân Sở''' là tên một tòa thành cổ của [[nhà Nguyễn]],; nay thuộc địa phận làng Mai Đàn, xã Cam Chính, huyện [[Cam Lộ]], tỉnh [[Quảng Trị]], [[Việt Nam]].
Năm [[1885]], đây là "kinh đô kháng [[Pháp]]" của phái chủ chiến trong triều đình nhà Nguyễn; nhưng giờ đây, công trình này đã không còn tồn tại.
Sau cuộc phản công của phe chủ chiến ở [[Kinh thành Huế]] thất bại, sáng ngày 5 [[tháng 7]] năm [[1885]], vua [[Hàm Nghi]] phải chạy ra thành Tân Sở, và đến ngày 13 cùng tháng, ngài bèn ban bố [[Chiếu Cần Vương|dụ Cần Vương]] lần đầu ở tại đây, làm dấy lên một phong trào kháng Pháp rộng khắp. Song chỉ mấy ngày sau, tướng De Courcy sai quân đến bao vây biển [[Nhật Lệ]] và đánh chiếm tỉnh thành [[Quảng Trị]], buộc tướng [[Tôn Thất Thuyết]] phải phò vua rời Tân Sở... <ref> Theo Nhóm Nhân văn Trẻ, ''Hỏi đáp lịch sử Việt Nam (tập 4)'', Nxb Trẻ, 2007, tr. 229. </ref>. Liền khi ấy, quân Pháp tràn cướp phá và san bằng Sơn phòng này.
==Vị trí, lịch sử==
==Giới thiệu==
Từ huyện lỵ Cam Lộ nằm ở [[km]] 12 trênTrên [[quốc lộ]] 9 từ [[Đông Hà]] đi [[Lao Bảo]], rẽchỗ vềcây phíasố hướng12 namrẽ theo đường vào Cùa chừng 7km7 [[km]] sẽ gặp một bình nguyên đất đỏ [[bazan]], được bao bọc bốn phía bởi các dãy núi trùng điệp, đó là vùng đất mà thành Tân Sở khi xưa đã tọa lạc.
 
Năm [[1873]], [[Trận thành Hà Nội (1873)|quân Pháp đánh ra Hà Nội lần thứ nhất]], buộc nhà Nguyễn phải ký [[Hòa ước Giáp Tuất 1874|Hòa ước Giáp Tuất (1874)]], thì ngay sau đó triều thần đã đề nghị lên vua [[Tự Đức]] xin khẩn trương xây dựng các Sơn phòng tại tất cả các tỉnh miền Trung, và được chấp thuận<ref>''[[Đại Nam thực lục chính biên]]'', Tập 8, NXb Giáo Dục, 2007, tr. 136.</ref>. Trong đó đáng chú ý là Nha Kinh lý Sơn Phòng Quảng Trị, tiền thân của thành Tân Sở <ref> Đỗ Bang, ''Hệ thống phòng thủ miền Trung dưới triều Nguyễn''. Nxb Văn hóa-Thông tin, 2011, tr. 160.</ref>
Ngay sau khi tàu chiến Pháp đánh phá cửa [[Thuận An]] ([[tháng 8]] năm [[1883]]), dẫn đến hiệp ước Harmand được ký kết; thì ở [[Cam Lộ]], thành Tân Sở cũng được gấp rút xây dựng. Đến đầu năm [[1885]], về cơ bản công trình đã được hoàn thành, để phòng khi phải đem nhà vua lên đó chỉ huy và phát động phong trào kháng Pháp.
 
Tuy nhiên, việc xây dựng Sơn phòng được tiến hành khẩn trương vào cuối năm [[1883]], dưới triều vua [[Kiến Phúc]]. Khi ấy, triều đình ban lệnh cho các phạm nhân đã phân loại đến khai khẩn ở Sơn phòng Quảng Trị<ref> Đỗ Bang, sách đã dẫn, tr. 155.,</ref>, cho ''“dời nha Sơn phòng Quảng Trị tới làng Bảng Sơn<ref> Bảng Sơn nay thuộc xã Cam Nghĩa, thuộc huyện [[Cam Lộ]]. </ref>, lỵ sở phủ Cam Lộ cũng xin dời về trong Sơn phòng”'' <ref> ''Quốc triều chính biên toát yếu''. Nxb Văn học, 2002, tr. 505.</ref>, đồng thời giao cho Phụ chính [[Nguyễn Văn Tường]] trực tiếp đứng ra đôn đốc binh sĩ, tù nhân và dân phu trong quá trình xây dựng thành Tân Sở, bởi Cơ mật viện cho là ''“Sơn phòng Quảng Trị có thể làm hậu lộ cho kinh đô”'' <ref> ''Đại Nam thực lục chính biên'', Tập 36. Nxb Khoa học xã hội, 1975, tr. 66.</ref>
Chẳng bao lâu sau việc tiêu liệu trên đã xảy ra. Ngày 5 [[tháng 7]] năm [[1885]], sau cuộc tấn công Pháp ở thành Mang Cá bị thất bại, [[kinh thành Huế]] bị thất thủ. Vua [[Hàm Nghi]] ([[1872]]-[[1943]])<ref> Ghi theo ''Từ điển bách khoa Việt Nam'' [http://www.bachkhoatoanthu.gov.vn/docstore.aspx?param=A470aWQ9MDAwNDAxNDU=]. Có nguồn ghi vua [[Hàm Nghi]] sinh năm [[1871]].</ref> cùng phái chủ chiến [[nhà Nguyễn]] phải chạy lên thành Tân Sở và rồi ban bố Dụ Cần Vương”<ref>Tên chính thức là "Lệnh Dụ Thiên hạ Cần vương", mà xưa nay người ta quen gọi là “Chiếu Cần vương”. Xem thêm: [http://chimviet.free.fr/32/chieucanvuong/txa_chieucanvuong2.htm]</ref>vào ngày 2 [[tháng 6]] năm [[Ất Dậu]] (13 [[tháng 7]] năm [[1885]]), kêu gọi nhân dân cả nước phò vua chống lại ngoại xâm.
 
Theo ''Việt Nam cách mạng sử'' <ref>[[Phạm Văn Sơn]], ''Việt Nam cách mạng sử'', [[Sài Gòn]], [[1963]].</ref> thì Tôn Thất Thuyết, trong hai năm, đã cho huy động tới 2.000 dân phu vào việc đào hầm, đắp lũy và ba tháng trước ngày đánh úp Pháp ở [[Huế]], ông đã bí mật cho các vật liệu, súng ống, thóc gạo, châu báu, bạc tiền đi Tân Sở <ref>Khi đó Lemaire còn làm Tổng trú sứ ở [[Huế]], nghe phong phanh Nam triều chở vũ khí và tiền bạc đi Tân Sở, ông có đến hỏi Phụ chính [[Nguyễn Văn Tường]], nhưng ông Tường cố chối cãi. Sau, ông Tường thú nhận với Đặc phái viên De Champeaux rằng, từ đầu [[tháng 6]] năm [[1885]], chỉ tính riêng số [[bạc]] nén cho đưa ra thành Tân Sở đã là 300.000 lượng! ([[Phạm Văn Sơn]], ''Việt Nam cách mạng sử'', [[Sài Gòn]], 1963, tr. 48-49).</ref>.
 
Cũng theo sách trên, thì Phụ chính [[Nguyễn Văn Tường]] chính là đốc công của công trình Tân Sở, còn Tham tri Bộ Công [[Phạm Thận Duật]] ([[1825]]-[[1885]]), chỉ là người đã góp phần xây dựng căn cứ Tân Sở mà thôi<ref>Xem thêm tại đây: [http://www.hophamvietnam.org/index.php?mn=newsdetail&key=thong-tin-van-hoa&newsid=214&type=7]</ref>.
 
==Kiểu dáng kiến trúc==
Theo khảo sát của giáo sĩ A.Delvaux (từng đến truyền giáo ở xứ đạo Phước Tuyền, [[Cam Lộ]]) vào năm [[1906]], thì "thành Tân Sở có diện tích gần 23 [[ha]], gồm hai vòng thành đều hình chữ nhật. Vòng thành ngoài có chiều dài 548 [[m]], rộng 418 m; xung quanh trồng tre, có 4 cửa (Tả, Hữu, Tiền, Hậu) ở chính giữa bốn mặt thành. Thành nội dài 165 m, rộng 100 m (diện tích 16,5 [[ha]]), cũng có bốn cửa, bên trong có mấy nếp nhà dùng làm nhà ở của các quan, có chợ, trại lính, kho đạn, hầm súng, tàu [[voi]], trại giam, giếng nước, v.v"...<ref>Lược theo A.Delvaux, ''Le camp de Tan So'' (dẫn lại theo Đỗ Bang, tr. 159).</ref>.
Thành Tân Sở được xây dựng theo cấu trúc hình chữ nhật dài 548[[m]], rộng 418m, với tổng [[diện tích]] 22,9 [[ha]]. Thành có hai phần là thành ngoại và thành nội.
*Thành ngoại: phía ngoài có hàng rào cọc nhọn và hào sâu bao bọc, tiếp là tường thành được đắp bằng đất nện, mở bốn cửa Tiền-Hậu-Tả-Hữu theo hướng tương ứng Nam-Bắc-Đông-Tây, tiếp theo là tre gai được trồng thành bốn lớp lũy dày, giữa các lũy tre là thành đất. Bên trong thành ngoại là chợ, trại lính, hầm súng, kho đạn, tàu voi, giếng nước, v.v...
*Thành nội: nằm gần giữa trung tâm, được xây bằng gạch vồ với chiều dài 165m, rộng 100m. Ở đây, có các ngôi nhà kiên cố được tháo dỡ từ [[Huế]] rồi mang ra dựng lại để vua và các quan làm việc.
Để hoàn thành gấp công trình này, mọi nhân tài và vật lực đều đỗ dồn về đây. Chỉ tính riêng số ngân lượng chi dụng đã bằng 1/3 quốc khố nội phủ lúc bấy giờ.
 
Tuy nhiên, hiện vẫn tồn tại vài công bố khác nhau về quy mô và quy cách thành Tân Sở, đáng chú ý có tài liệu của [[Linh mục]] H. De Pirey công bố năm [[1914]]. Theo ông thì "tòa thành hình vuông, mỗi cạnh 780 m, gồm ba vòng thành: Vòng thành ngoài là một hệ thống cọc cao chừng 4 mét, đóng sâu xuống đất. Vòng thành kế tiếp mỗi cạnh 420 m, cao 2 m, được đắp bằng đất, bao bọc thành nội ở bên trong"...<ref>H. De Pirey, "Une Capital Éphémère: Tan So", BAVH, 1914, p. 227.</ref>.
Nhìn chung, tòa thành có lối kiến trúc có từ thời [[nhà Lê]] trở về trước. Theo Đỗ Văn Ninh, thì đây "chính là một trong những công sự cuối cùng của dòng kiến trúc cũ, được xây dựng vào thời Nguyễn" <ref>Đỗ Văn Ninh, ''Thành cổ Việt Nam'', Nxb KH-XH, 1985, tr. 157</ref>.
 
Giải thích sự khác nhau này, PGS. TS Sử học Đỗ Bang, viết:
==Vai trò==
:''"Vì sau khi vua [[Hàm Nghi]] rời Tân Sở, tòa thành này bị quân Pháp san bằng, nên các dữ liệu đầy đủ và chính xác về thành Tân Sở còn lại là rất hiếm. Do vậy, thành Tân Sở để lại nhiều vấn đề tồn nghi. Thành có 3 hay 2 vòng thành, kích thước các vòng thành vẫn chưa thống nhất. Vòng thành ngoài trồng bao nhiêu hàng tre (4, 3, 2 hay 1), Thành Nội có xây gạch không, hào thành và lũy thành như thế nào thì vẫn phải cần nghiên cứu thêm <ref> Đỗ Bang (sách đã dẫn, tr. 160). Phạm Văn Sơn (sách đã dẫn, tr. 48) ghi là “chung quanh thành có ba lớp bằng đất mới trồng tre làm rào chắn bố mặt có khoảng trống làm cửa (tả, hửu, tiền, hậu)”. Song có nguồn cho rằng xung quanh thành Tân Sở có trồng bốn hàng tre chen dày, đan kín: Bờ tre ngoài cùng cách bờ tre thứ hai 21 m, bờ tre thứ hai cách bờ tre thứ ba 13 m, bờ tre thứ ba cách bờ tre thứ tư 5 m. Giữa các bờ tre là tường thành đắp bằng đất nện chặt (theo bài “Di tích lịch sử Tân Sở đang trở thành phế tích” trên Việt báo (bản điện tử ngày 23 tháng 1 năm 2006).</Ref>
Theo sách ''Hỏi đáp lịch sử Việt Nam tập 4'', thì thành Tân Sở có nhiều ngả đường kín đáo đổ về nó. Hơn thế nữa, từ Tân Sở lại có nhiều ngã đường xuyên thông với các tỉnh [[Bắc Kỳ]]. Rải rác trên con đường xuyên rừng này, có những kho thóc cất giữ kín đáo <ref>Nhiều người soạn, ''Hỏi đáp lịch sử Việt Nam tập 4'', Nxb Trẻ, 2007, tr. 227.</ref>.
 
==Tốn rất nhiều thời gian, công sức và tiền của==
Tuy nhiên, bên cạnh một vài ưu điểm trên, qua thực tế, nó cũng đã bộc lộ không ít những nhược điểm.
Cũng theo Đỗ Bang, thì triều đình đã huy động "hàng ngàn binh lính, tù phạm và dân phu ngày đêm đào hào, xây thành, đắp lũy...Đồng thời, phải khẩn hoang để tự chủ lương thực, dự trữ muối để phòng lúc bị vây, khai quặng sắt để rèn đúc công cụ và vũ khí. Ngoài ra, còn phải đưa vàng bạc, vũ khí từ [[Huế]] ra trước để dự phòng, mở đường thượng đạo để thông với [[Cố đô Huế |kinh đô Huế]] và [[Quảng Bình]]"...<ref> Đỗ Bang, sách đã dẫn, tr. 155.</ref>.
 
TheoNhà ''Việtsử Namhọc cách mạng sử'' <ref>[[Phạm Văn Sơn]], ''Việtcho Nambiết cáchthêm mạngchi sử'',tiết: [[Sài"Trong hai Gòn]]năm, [[1963]].</ref> thì Tôn Thất Thuyết, trong hai năm,]] đã cho huy động tới 2.000 dân phu vào việc đào hầm, đắp lũy; và ba tháng trước ngày đánh úp Pháp ở [[Huế]], ông đã bí mật cho các vật liệu, súng ống, thóc gạo, châu báu, bạc tiền đi Tân Sở. <ref>Khi đó Lemaire còn làm Tổng trú sứ ở [[Huế]], nghe phong phanh Nam triều chở vũ khí và tiền bạc đi Tân Sở, ông có đến hỏi Phụ chính [[Nguyễn Văn Tường]], nhưng ông Tường cố chối cãi. Sau, ông Tường thú nhận với Đặc phái viên De Champeaux rằng, từ đầu [[tháng 6]] năm [[1885]], chỉ tính riêng số [[bạc]] nén cho đưa ra thành Tân Sở đã là 300.000 lượng! ("...<ref>[[Phạm Văn Sơn]], ''Việt Nam cách mạng sử'', [[Sài Gòn]], 1963, tr. 48-49).</ref>.
Sách ''Việt Nam cách mạng sử'' có đoạn:
:''Tân Sở là một cái thành xây trên một cao nguyên, phía Tây là [[Lào]], phía Đông là những bãi cát khô khan của tỉnh [[Quảng Trị]]. Và [[Tôn Thất Thuyết]] sở dĩ phải bỏ Tân Sở, vì có tới đây ông mới thấy vùng [[Cam Lộ]] có nhiều điều bất lợi, bởi không đông dân chúng và ít trù phú, việc tuyển mộ lính tráng sẽ khó khăn, việc tiếp vận quân lương, vũ khí sẽ bế tắt nốt...Ngoài ra, nếu quân Pháp chiếm đóng Cam Lộ, Tân Sở sẽ thành cái túi mà miệng túi đã đóng rồi, các lối ra biển, lên [[Lào]], vào Nam, ra Bắc đều sẽ bất tiện. Chính vì vậy, ông Thuyết muốn đem vua đi [[Nghệ Tĩnh]], là nơi có thể làm trung tâm lâu dài cho cuộc kháng chiến... Xét ra vua Hàm Nghi ở Tân Sở chỉ độ 4 hay 5 ngày <ref>Phạm Văn Sơn, ''Việt Nam cách mạng sử'', Sài Gòn 1963, tr, 50.</ref>.
Picad Destelan trong sách ''An Nam và Bắc Kỳ'' (xuất bản tại [[Paris]], [[1892]]) cũng cho biết rằng: "Đã ba tháng nay (tức trong năm [[1883]]), một ngàn đến mười lăm ngàn người làm việc trong thành Cam Lộ, không những xây để phòng thủ, mà còn là nơi để thành Hoàng cung, (và) sẽ là Kinh đô thứ hai" <ref>Dẫn lại theo H. De Pirey, bài báo đã dẫn, tr. 225.</ref>.
==Nhưng sớm bị san bằng==
TheoMặc sách ''Hỏithành đápTân lịchSở sửnằm Việt Namđịa tậpthế 4''hiểm trở, thì thànhnúi Tânnon Sởtrùng điệp, có nhiều ngả đường kín đáo đổ về nơi đó. Hơn thế nữa, từ Tân Sở lại có nhiều ngã đường xuyên thông vớisang các[[Lào]] và tỉnhra [[Bắc Kỳ]]. Rải rác trên các con đường xuyên rừng này, có những kho thóc cất giữ kín đáo ...<ref>NhiềuTheo người[[Phạm soạn,Văn Sơn]] (tr. 48) và ''Hỏi đáp lịch sử Việt Nam (tập 4'', Nxb Trẻ, 2007, tr. 227).</ref>. Song, bên cạnh những ưu điểm trên, qua thực tế, nó cũng đã bộc lộ không ít những nhược điểm.
 
Nhà sử học [[Phạm Văn Sơn]] viết:
:''Tân Sở là một cái thành xây trên một cao nguyên, phía Tây là [[Lào]], phía Đông là những bãi cát khô khan của tỉnh [[Quảng Trị]]. Và [[Tôn Thất Thuyết]] sở dĩ phải bỏ Tân Sở, vì có tới đây ông mới thấy vùng [[Cam Lộ]] có nhiều điều bất lợi, bởi không đông dân chúng và ít trù phú, việc tuyển mộ lính tráng sẽ khó khăn, việc tiếp vận quân lương, vũ khí sẽ bế tắt nốt...Ngoài ra, nếu quân Pháp chiếm đóng Cam Lộ, Tân Sở sẽ thành cái túi mà miệng túi đã đóng rồi, các lối ra biển, lên [[Lào]], vào Nam, ra Bắc đều sẽ bất tiện. Chính vì vậy, ông Thuyết muốn đem vua đi [[Nghệ Tĩnh]], là nơi có thể làm trung tâm lâu dài cho cuộc kháng chiến... Xét ra vua Hàm Nghi ở Tân Sở chỉ độ 4 hay 5 ngày"''... <ref>Phạm Văn Sơn, ''Việtsách Namđã cách mạng sử'', Sài Gòn 1963dẫn, tr,. 50.</ref>.
GS. [[Trần Văn Giàu]] có những nhận xét tương tự:
:''"Từ [[Quảng Trị]], vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết đi lên Tân Sở. Thành Tân Sở được xây dựng từ 2 năm nay ở phía trong thành Cam Lộ, về hướng biên giới [[Lào ]]- Việt, sau một cái đèo hiểm trở. Nhưng ở đây không phải là một địa bàn để hoạt động vì đất quá nghèo, dân quá ít. Ở Tân Sở nếu quân Pháp chiếm đóng Cam Lộ, Tân Sở sẽ trở thành cái rọ mà cửa đã đóng rồi; ra biển, lên [[Lào]], đi [[Nam Kỳ|Nam]], đi [[Bắc Kỳ|Bắc]] đều bất tiện. Thành Tân Sở có mấy vòng thành liên tiếp bao bọc một số lâu đài kho lẫm, trại lính, có đủ thóc, muối, súng, đạn, châu báu; nhưng vách thành [[Huế]] kia còn không đứng vững thì nếu ở đây, sao khỏi bị bắt một ngày nào?"''
:''"Vậy cho nên, ông Thuyết ra lệnh bỏ Tân Sở mà lên [[Quảng Bình]], nhưng đi đến Thụy Ba thì được tin quân Pháp đã đổ lên nơi đó rồi, để ngăn không cho đoàn Hàm Nghi ra vùng [[Thanh Hóa|Thanh]] - [[Nghệ An|Nghệ]]-[[Hà Tĩnh|Tĩnh]], là nơi mà hịch Cần Vương đã gây lên phong trào rất mạnh. Vua Hàm Nghi và ông Thuyết lộn về Tân Sở thì quân Pháp đã chiếm thành [[Cam Lộ]]. Ông Thuyết cùng vua đành phải vội vã rời Tân Sở đi đường núi, ra phía Bắc, bỏ lại vô số của cải, kho tàng, báu vật, và quân Pháp tràn đến cướp liềnliền…"''<ref>Lược theo ''Tổng tập'' (tập I), Nxb Quân đội Nhân dân, [[Hà Nội]], 2006, tr.507</ref>.
 
==PhếChỉ còn là phế tích==
Nhân kỷ niệm 125 năm ngày vua Hàm Nghi ban dụ Cần Vương tại Tân Sở (13 tháng 7 năm 1885 – 13 tháng 7 năm 2010), ngày 13 [[tháng 7]] năm [[2010]], tại huyện [[Cam Lộ]] ([[Quảng Trị]]) đã diễn ra cuộc hội thảo khoa học “Thành Tân Sở với phong trào Cần Vương” do UBND tỉnh Quảng Trị và Hội Khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức.
Một trong số ít tư liệu đầu tiên nói đến thành Tân Sở, đó chính là bài viết (có kèm theo ảnh và bản đồ) của giáo sĩ A.Delvaux, người từng đến truyền giáo ở xứ đạo Phước Tuyền (Cam Lộ), đã được đăng trên tập san ''Đô Thành Hiếu Cổ'' (B.A.V.H -“Le camp de Tan So”). Thành Tân Sở, sau này bị quân Pháp đốt phá, nhưng cũng theo A.Delvaux, khi ông lên đây lần đầu vào năm [[1906]], thì những tường lũy trong và ngoài khu thành vẫn còn khá nguyên vẹn<ref name="ttr">Theo ''[[báo Tuổi Trẻ]]'' [http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/PrintView.aspx?ArticleID=292510&ChannelID=89]</ref>.
 
Trong cuộc hội thảo, các nhà nghiên cứu tỏ sự bức xúc và thái độ không hài lòng trước việc thành Tân Sở dù đã được công nhận xếp hạng di tích quốc gia từ năm [[1995]], nhưng cho đến hôm nay, di tích này đã thực sự trở thành một phế tích, vì ''“chẳng còn lại gì ngoài những vườn cây cao su và những bãi đất trống”'' <ref> Theo bài "Di tích quốc gia thành Tân Sở: Làm gì từ phế tích?" trên báo Lao động (bản điện tử ngày 14 tháng 7 năm 2010) [http://laodong.com.vn/Tin-tuc/Di-tich-quoc-gia-thanh-Tan-So-Lam-gi-tu-phe-tich/5591]. Xem thêm nội dung cuộc hội thảo tại đây: [http://www.tapchicuaviet.com.vn/htt383_001/index.asp?main=ndd&TL=SK_DT&ID=523].</ref>
Thực tế rất khó để xác định chính xác vị trí thành Tân Sở, tức “kinh đô kháng chiến một thời”, vì hiện nay không còn dấu vết gì ngoài một bình nguyên rộng lớn và những lũy tre bao quanh. Phần vì bom đạn, nắng gió khắc nghiệt; phần khác cũng vì đất đai ở đây đã được những người dân địa phương tận dụng để sản xuất nông nghiệp.
Theo một bài viết trên [[báo Tuổi trẻ]] thì sau khi thành Tân Sở bị quân Pháp chiếm và đốt phá, công sứ Quảng Trị là Hamelin đã sai chuyển bốn khẩu thần công có khắc [[chữ Hán]] từ Tân Sở về đặt trước hành cung ở [[thành cổ Quảng Trị]], trong đó có hai cỗ súng dài đến 2,57[[m]]. Và hồi những năm [[1970]]-[[1980]], có người đi tìm phế liệu, đã tìm thấy khá nhiều đạn của súng thần công, những viên đạn hình cầu đúc bằng gang hay sắt, đồng, kích cỡ đường kính lớn nhỏ khác nhau trong khu vực thành Tân Sở xưa này <ref name="ttr">Theo ''báo Tuổi Trẻ'' [http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/PrintView.aspx?ArticleID=292510&ChannelID=89 Kinh đô kháng chiến]</ref>.
 
==Chú thích==
{{reflist}}
 
==Liên kết ngoài==
*[http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/PrintView.aspx?ArticleID=292510&ChannelID=89 Kinh đô kháng chiến]
*[http://www.dostquangtri.gov.vn/Include/default.asp?option=2&Menu=241&sub=243&chitiet=2677 Thành Tân Sở - Kinh đô kháng chiến một thời.]
*[http://vietbao.vn/Van-hoa/Di-tich-lich-su-Tan-So-dang-tro-thanh-phe-tich/65042511/181/ Tân Sở đang trở thành phế tích]
[[Thể loại:Thành cổ Việt Nam]]
[[Thể loại:Phong trào Cần Vương]]