Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thành Tân Sở”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n nhỏ |
Cập nhật |
||
Dòng 1:
[[Tập tin:Sơ đồ thành cổ Tân Sở.svg |nhỏ|phải|300px|Thành Tân Sở (dựa theo bản vẽ của giáo sĩ A.Delvaux)]]
'''Thành Tân Sở''' hay '''Sơn phòng Tân Sở''' là tên một tòa thành cổ của [[nhà Nguyễn]]
Sau cuộc phản công của phe chủ chiến ở [[Kinh thành Huế]] thất bại, sáng ngày 5 [[tháng 7]] năm [[1885]], vua [[Hàm Nghi]] phải chạy ra thành Tân Sở, và đến ngày 13 cùng tháng, ngài bèn ban bố [[Chiếu Cần Vương|dụ Cần Vương]] lần đầu ở tại đây, làm dấy lên một phong trào kháng Pháp rộng khắp. Song chỉ mấy ngày sau, tướng De Courcy sai quân đến bao vây biển [[Nhật Lệ]] và đánh chiếm tỉnh thành [[Quảng Trị]], buộc tướng [[Tôn Thất Thuyết]] phải phò vua rời Tân Sở... <ref> Theo Nhóm Nhân văn Trẻ, ''Hỏi đáp lịch sử Việt Nam (tập 4)'', Nxb Trẻ, 2007, tr. 229. </ref>. Liền khi ấy, quân Pháp tràn cướp phá và san bằng Sơn phòng này.
==Vị trí, lịch sử==
Năm [[1873]], [[Trận thành Hà Nội (1873)|quân Pháp đánh ra Hà Nội lần thứ nhất]], buộc nhà Nguyễn phải ký [[Hòa ước Giáp Tuất 1874|Hòa ước Giáp Tuất (1874)]], thì ngay sau đó triều thần đã đề nghị lên vua [[Tự Đức]] xin khẩn trương xây dựng các Sơn phòng tại tất cả các tỉnh miền Trung, và được chấp thuận<ref>''[[Đại Nam thực lục chính biên]]'', Tập 8, NXb Giáo Dục, 2007, tr. 136.</ref>. Trong đó đáng chú ý là Nha Kinh lý Sơn Phòng Quảng Trị, tiền thân của thành Tân Sở <ref> Đỗ Bang, ''Hệ thống phòng thủ miền Trung dưới triều Nguyễn''. Nxb Văn hóa-Thông tin, 2011, tr. 160.</ref>
Tuy nhiên, việc xây dựng Sơn phòng được tiến hành khẩn trương vào cuối năm [[1883]], dưới triều vua [[Kiến Phúc]]. Khi ấy, triều đình ban lệnh cho các phạm nhân đã phân loại đến khai khẩn ở Sơn phòng Quảng Trị<ref> Đỗ Bang, sách đã dẫn, tr. 155.,</ref>, cho ''“dời nha Sơn phòng Quảng Trị tới làng Bảng Sơn<ref> Bảng Sơn nay thuộc xã Cam Nghĩa, thuộc huyện [[Cam Lộ]]. </ref>, lỵ sở phủ Cam Lộ cũng xin dời về trong Sơn phòng”'' <ref> ''Quốc triều chính biên toát yếu''. Nxb Văn học, 2002, tr. 505.</ref>, đồng thời giao cho Phụ chính [[Nguyễn Văn Tường]] trực tiếp đứng ra đôn đốc binh sĩ, tù nhân và dân phu trong quá trình xây dựng thành Tân Sở, bởi Cơ mật viện cho là ''“Sơn phòng Quảng Trị có thể làm hậu lộ cho kinh đô”'' <ref> ''Đại Nam thực lục chính biên'', Tập 36. Nxb Khoa học xã hội, 1975, tr. 66.</ref>
Theo ''Việt Nam cách mạng sử'' <ref>[[Phạm Văn Sơn]], ''Việt Nam cách mạng sử'', [[Sài Gòn]], [[1963]].</ref> thì Tôn Thất Thuyết, trong hai năm, đã cho huy động tới 2.000 dân phu vào việc đào hầm, đắp lũy và ba tháng trước ngày đánh úp Pháp ở [[Huế]], ông đã bí mật cho các vật liệu, súng ống, thóc gạo, châu báu, bạc tiền đi Tân Sở <ref>Khi đó Lemaire còn làm Tổng trú sứ ở [[Huế]], nghe phong phanh Nam triều chở vũ khí và tiền bạc đi Tân Sở, ông có đến hỏi Phụ chính [[Nguyễn Văn Tường]], nhưng ông Tường cố chối cãi. Sau, ông Tường thú nhận với Đặc phái viên De Champeaux rằng, từ đầu [[tháng 6]] năm [[1885]], chỉ tính riêng số [[bạc]] nén cho đưa ra thành Tân Sở đã là 300.000 lượng! ([[Phạm Văn Sơn]], ''Việt Nam cách mạng sử'', [[Sài Gòn]], 1963, tr. 48-49).</ref>. ▼
==Kiểu dáng kiến trúc==
Theo khảo sát của giáo sĩ A.Delvaux (từng đến truyền giáo ở xứ đạo Phước Tuyền, [[Cam Lộ]]) vào năm [[1906]], thì "thành Tân Sở có diện tích gần 23 [[ha]], gồm hai vòng thành đều hình chữ nhật. Vòng thành ngoài có chiều dài 548 [[m]], rộng 418 m; xung quanh trồng tre, có 4 cửa (Tả, Hữu, Tiền, Hậu) ở chính giữa bốn mặt thành. Thành nội dài 165 m, rộng 100 m (diện tích 16,5 [[ha]]), cũng có bốn cửa, bên trong có mấy nếp nhà dùng làm nhà ở của các quan, có chợ, trại lính, kho đạn, hầm súng, tàu [[voi]], trại giam, giếng nước, v.v"...<ref>Lược theo A.Delvaux, ''Le camp de Tan So'' (dẫn lại theo Đỗ Bang, tr. 159).</ref>.
Tuy nhiên, hiện vẫn tồn tại vài công bố khác nhau về quy mô và quy cách thành Tân Sở, đáng chú ý có tài liệu của [[Linh mục]] H. De Pirey công bố năm [[1914]]. Theo ông thì "tòa thành hình vuông, mỗi cạnh 780 m, gồm ba vòng thành: Vòng thành ngoài là một hệ thống cọc cao chừng 4 mét, đóng sâu xuống đất. Vòng thành kế tiếp mỗi cạnh 420 m, cao 2 m, được đắp bằng đất, bao bọc thành nội ở bên trong"...<ref>H. De Pirey, "Une Capital Éphémère: Tan So", BAVH, 1914, p. 227.</ref>.
Giải thích sự khác nhau này, PGS. TS Sử học Đỗ Bang, viết:
:''"Vì sau khi vua [[Hàm Nghi]] rời Tân Sở, tòa thành này bị quân Pháp san bằng, nên các dữ liệu đầy đủ và chính xác về thành Tân Sở còn lại là rất hiếm. Do vậy, thành Tân Sở để lại nhiều vấn đề tồn nghi. Thành có 3 hay 2 vòng thành, kích thước các vòng thành vẫn chưa thống nhất. Vòng thành ngoài trồng bao nhiêu hàng tre (4, 3, 2 hay 1), Thành Nội có xây gạch không, hào thành và lũy thành như thế nào thì vẫn phải cần nghiên cứu thêm <ref> Đỗ Bang (sách đã dẫn, tr. 160). Phạm Văn Sơn (sách đã dẫn, tr. 48) ghi là “chung quanh thành có ba lớp bằng đất mới trồng tre làm rào chắn bố mặt có khoảng trống làm cửa (tả, hửu, tiền, hậu)”. Song có nguồn cho rằng xung quanh thành Tân Sở có trồng bốn hàng tre chen dày, đan kín: Bờ tre ngoài cùng cách bờ tre thứ hai 21 m, bờ tre thứ hai cách bờ tre thứ ba 13 m, bờ tre thứ ba cách bờ tre thứ tư 5 m. Giữa các bờ tre là tường thành đắp bằng đất nện chặt (theo bài “Di tích lịch sử Tân Sở đang trở thành phế tích” trên Việt báo (bản điện tử ngày 23 tháng 1 năm 2006).</Ref>
Theo sách ''Hỏi đáp lịch sử Việt Nam tập 4'', thì thành Tân Sở có nhiều ngả đường kín đáo đổ về nó. Hơn thế nữa, từ Tân Sở lại có nhiều ngã đường xuyên thông với các tỉnh [[Bắc Kỳ]]. Rải rác trên con đường xuyên rừng này, có những kho thóc cất giữ kín đáo <ref>Nhiều người soạn, ''Hỏi đáp lịch sử Việt Nam tập 4'', Nxb Trẻ, 2007, tr. 227.</ref>.▼
==Tốn rất nhiều thời gian, công sức và tiền của==
Cũng theo Đỗ Bang, thì triều đình đã huy động "hàng ngàn binh lính, tù phạm và dân phu ngày đêm đào hào, xây thành, đắp lũy...Đồng thời, phải khẩn hoang để tự chủ lương thực, dự trữ muối để phòng lúc bị vây, khai quặng sắt để rèn đúc công cụ và vũ khí. Ngoài ra, còn phải đưa vàng bạc, vũ khí từ [[Huế]] ra trước để dự phòng, mở đường thượng đạo để thông với [[Cố đô Huế |kinh đô Huế]] và [[Quảng Bình]]"...<ref> Đỗ Bang, sách đã dẫn, tr. 155.</ref>.
▲
:''Tân Sở là một cái thành xây trên một cao nguyên, phía Tây là [[Lào]], phía Đông là những bãi cát khô khan của tỉnh [[Quảng Trị]]. Và [[Tôn Thất Thuyết]] sở dĩ phải bỏ Tân Sở, vì có tới đây ông mới thấy vùng [[Cam Lộ]] có nhiều điều bất lợi, bởi không đông dân chúng và ít trù phú, việc tuyển mộ lính tráng sẽ khó khăn, việc tiếp vận quân lương, vũ khí sẽ bế tắt nốt...Ngoài ra, nếu quân Pháp chiếm đóng Cam Lộ, Tân Sở sẽ thành cái túi mà miệng túi đã đóng rồi, các lối ra biển, lên [[Lào]], vào Nam, ra Bắc đều sẽ bất tiện. Chính vì vậy, ông Thuyết muốn đem vua đi [[Nghệ Tĩnh]], là nơi có thể làm trung tâm lâu dài cho cuộc kháng chiến... Xét ra vua Hàm Nghi ở Tân Sở chỉ độ 4 hay 5 ngày <ref>Phạm Văn Sơn, ''Việt Nam cách mạng sử'', Sài Gòn 1963, tr, 50.</ref>.▼
Picad Destelan trong sách ''An Nam và Bắc Kỳ'' (xuất bản tại [[Paris]], [[1892]]) cũng cho biết rằng: "Đã ba tháng nay (tức trong năm [[1883]]), một ngàn đến mười lăm ngàn người làm việc trong thành Cam Lộ, không những xây để phòng thủ, mà còn là nơi để thành Hoàng cung, (và) sẽ là Kinh đô thứ hai" <ref>Dẫn lại theo H. De Pirey, bài báo đã dẫn, tr. 225.</ref>.
==Nhưng sớm bị san bằng==
▲
Nhà sử học [[Phạm Văn Sơn]] viết:
▲:''
GS. [[Trần Văn Giàu]] có những nhận xét tương tự:
:''"Từ [[Quảng Trị]], vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết đi lên Tân Sở. Thành Tân Sở được xây dựng từ 2 năm nay ở phía trong thành Cam Lộ, về hướng biên giới [[Lào
:''"Vậy cho nên, ông Thuyết ra lệnh bỏ Tân Sở mà lên [[Quảng Bình]], nhưng đi đến Thụy Ba thì được tin quân Pháp đã đổ lên nơi đó rồi, để ngăn không cho đoàn Hàm Nghi ra vùng [[Thanh Hóa|Thanh]] - [[Nghệ An|Nghệ]]-[[Hà Tĩnh|Tĩnh]], là nơi mà hịch Cần Vương đã gây lên phong trào rất mạnh. Vua Hàm Nghi và ông Thuyết lộn về Tân Sở thì quân Pháp đã chiếm thành [[Cam Lộ]]. Ông Thuyết cùng vua đành phải vội vã rời Tân Sở đi đường núi, ra phía Bắc, bỏ lại vô số của cải, kho tàng, báu vật, và quân Pháp tràn đến cướp
==
Nhân kỷ niệm 125 năm ngày vua Hàm Nghi ban dụ Cần Vương tại Tân Sở (13 tháng 7 năm 1885 – 13 tháng 7 năm 2010), ngày 13 [[tháng 7]] năm [[2010]], tại huyện [[Cam Lộ]] ([[Quảng Trị]]) đã diễn ra cuộc hội thảo khoa học “Thành Tân Sở với phong trào Cần Vương” do UBND tỉnh Quảng Trị và Hội Khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức.
Trong cuộc hội thảo, các nhà nghiên cứu tỏ sự bức xúc và thái độ không hài lòng trước việc thành Tân Sở dù đã được công nhận xếp hạng di tích quốc gia từ năm [[1995]], nhưng cho đến hôm nay, di tích này đã thực sự trở thành một phế tích, vì ''“chẳng còn lại gì ngoài những vườn cây cao su và những bãi đất trống”'' <ref> Theo bài "Di tích quốc gia thành Tân Sở: Làm gì từ phế tích?" trên báo Lao động (bản điện tử ngày 14 tháng 7 năm 2010) [http://laodong.com.vn/Tin-tuc/Di-tich-quoc-gia-thanh-Tan-So-Lam-gi-tu-phe-tich/5591]. Xem thêm nội dung cuộc hội thảo tại đây: [http://www.tapchicuaviet.com.vn/htt383_001/index.asp?main=ndd&TL=SK_DT&ID=523].</ref>
==Chú thích==
{{reflist}}
[[Thể loại:Thành cổ Việt Nam]]
[[Thể loại:Phong trào Cần Vương]]
|