Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thành Tân Sở”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cập nhật
n Bổ sung và cập nhật thông tin
Dòng 1:
[[Tập tin:Sơ đồ thành cổ Tân Sở.svg |nhỏ|phải|300px|Thành Tân Sở (dựa theo bản vẽ của giáo sĩ A.Delvaux)]]
 
'''Thành Tân Sở''' hay '''Sơn phòng Tân Sở''' là tên một tòa thành cổ của [[nhà Nguyễn]]; nay thuộc địa phận làng Mai Đàn, xã Cam Chính, huyện [[Cam Lộ]], tỉnh [[Quảng Trị]], [[Việt Nam]].
Hàng 13 ⟶ 12:
 
==Kiểu dáng kiến trúc==
TheoQua cuộc khảo sátcứu củathực giáo sĩ A.Delvaux (từng đến truyền giáo ở xứ đạo Phước Tuyền, [[Cam Lộ]])địa vào năm [[19061941]], thìtác giả A.Delvaux công bố rằng "thành Tân Sở có diện tích gần 23 [[ha]], gồm hai vòng thành đều hình chữ nhật. Vòng thành ngoài có chiều dài 548 [[m]], rộng 418 m; xung quanh trồng tre, có 4 cửa (Tả, Hữu, Tiền, Hậu) ở chính giữa bốn mặt thành. Thành nội dài 165 m, rộng 100 m (diện tích 16,5 [[ha]]), cũng có bốn cửa, bên trong có mấy nếp nhà dùng làm nhà ở của các quan, có chợ, trại lính, kho đạn, hầm súng, tàu [[voi]], trại giam, giếng nước, v.v"...<ref>Lược theo A. Delvaux, ''LeQuelque camppréscisions sur une période troublée de TanL’ So''histoire (dẫnd’ lạiAnnam, theoBAVH, ĐỗN03, Bang1941, tr. 159268. Số do của Delvaux về sau được nhiều tác giả sử dụng, trong đó có [[Phạm Văn Sơn]] (sách đã dẫn, tr. 48), nhóm Nhân văn Trẻ (tr.227).</ref>.
 
Tuy nhiên, hiện vẫn tồn tại vài công bố khác nhau về quy mô và quy cách thành Tân Sở, đáng chú ý có tài liệu của [[Linh mục]] H. De Pirey công bố năm [[1914]]. Theo ông thì "tòa thành hình vuông, mỗi cạnh 780 m, gồm ba vòng thành: Vòng thành ngoài là một hệ thống cọc cao chừng 4 mét, đóng sâu xuống đất. Vòng thành kế tiếp mỗi cạnh 420 m, cao 2 m, được đắp bằng đất, bao bọc thành nội ở bên trong"...<ref>H. De Pirey, "Une Capital Éphémère: Tan So", BAVH, 1914, p. 227.</ref>.
 
Giải thích sự khác nhau này, PGS. TS Sử học Đỗ Bang, viết:
:''"Vì sau khi vua [[Hàm Nghi]] rời Tân Sở, tòa thành này bị quân Pháp san bằng, nên các dữ liệu đầy đủ và chính xác về thành Tân Sở còn lại là rất hiếm. Do vậy, thành Tân Sở để lại nhiều vấn đề tồn nghi. Thành có 3 hay 2 vòng thành, kích thước các vòng thành vẫn chưa thống nhất. Vòng thành ngoài trồng bao nhiêu hàng tre (4, 3, 2 hay 1), Thành Nội có xây gạch không, hào thành và lũy thành như thế nào thì vẫn phải cần nghiên cứu thêm <ref> Đỗ Bang (sách đã dẫn, tr. 160). Phạm Văn Sơn (sách đã dẫn, tr. 48) ghi là “chung quanh thành có ba lớp bằng đất mới trồng tre làm rào chắn bố mặt có khoảng trống làm cửa (tả, hửu, tiền, hậu)”. Song có nguồn cho rằng xung quanh thành Tân Sở có trồng bốn hàng tre chen dày, đan kín: Bờ tre ngoài cùng cách bờ tre thứ hai 21 m, bờ tre thứ hai cách bờ tre thứ ba 13 m, bờ tre thứ ba cách bờ tre thứ tư 5 m. Giữa các bờ tre là tường thành đắp bằng đất nện chặt (theo bài “Di tích lịch sử Tân Sở đang trở thành phế tích” trên Việt báo, (bản điện tử ngày 23 tháng 1 năm 2006).</Ref>
 
==Tốn rất nhiều thời gian, công sức và tiền của==
CũngĐể theoxây Đỗdựng Bang,thành thìTân Sở, triều đình đã huy động "hàng ngàn binh lính, tù phạm và dân phu ngày đêm đào hào, xây thành, đắp lũy. Vật liệu tại chỗ chủ yếu là gỗ, tre, mây...còn phần lớn được vận chuyển từ [[Huế]] ra để xây dựng, trong đó có gạch với kích thước lớn, khối lượng lớn để xây Thành Nội và một số kiến trúc ở bên trong Thành Nội. Đồng thời, phải khẩn hoang để tự chủ lương thực, dự trữ muối để phòng lúc bị vây, khai quặng sắt để rèn đúc công cụ và vũ khí. Ngoài ra, còn phải đưa vàng bạc, vũ khí từ [[Huế]] ra trước để dự phòng, mở đường thượng đạo để thông với [[Cố đô Huế |kinh đô Huế]] và [[Quảng Bình]]"...<ref> Đỗ Bang, sách đã dẫn, tr. 155.</ref>.
 
Nhà sử học [[Phạm Văn Sơn]] cho biết thêm chi tiết: "Trong hai năm, [[Tôn Thất Thuyết]] đã cho huy động tới 2.000 dân phu vào việc đào hầm, đắp lũy; và ba tháng trước ngày đánh úp Pháp ở [[Huế]], ông đã bí mật cho các vật liệu, súng ống, thóc gạo, châu báu, bạc tiền đi Tân Sở. Khi Lemaire còn làm Tổng trú sứ ở [[Huế]], nghe phong phanh Nam triều chở vũ khí và tiền bạc đi Tân Sở, ông có đến hỏi Phụ chính [[Nguyễn Văn Tường]], nhưng ông Tường cố chối cãi. Sau, ông Tường thú nhận với Đặc phái viên De Champeaux rằng, từ đầu [[tháng 6]] năm [[1885]], chỉ tính riêng số [[bạc]] nén cho đưa ra thành Tân Sở đã là 300.000 lượng!"...<ref>[[Phạm Văn Sơn]], ''Việt Nam cách mạng sử'', [[Sài Gòn]], 1963, tr. 49.</ref>.
Hàng 28 ⟶ 27:
==Nhưng sớm bị san bằng==
Một số tác giả cho rằng vua [[Hàm Nghi]] lên Tân Sở vào ngày 10 [[tháng 7]] năm [[1885]] <ref>''Quốc triều chính biên toát yếu'' ghi là: "Tháng 5, ngày 23, Kinh thành hữu sự....Ngày 24, Ngài và Tam cung ra tới [[Quảng Trị]]. Ngày 27, Ngài ngự ra Sơn phòng Quảng Trị (tr. 510). Tính ra, ngày 27 tháng 5 (âm lịch) vừa kể nhằm ngày 9 tháng 7 năm 1885.</ref>, rồi ba ngày sau nhà vua ban Dụ Cần Vương. Lần thứ hai là khi trên đường ra [[Quảng Bình]] bằng đường hạ bạn ở đồng bằng thì nghe tin quân Pháp đón bắt ở [[Đồng Hới]], Tôn Thất Thuyết phải đưa nhà vua về lại Tân Sở, rồi theo con đường thượng đạo để ra Bắc. Theo tác giả Nguyễn Quang Trung Tiến và Trương Công Huỳnh Kỳ, vua Hàm Nghi ở Tân Sở lần thứ nhất từ ngày 10 đến 18 [[tháng 7]], và lần thứ hai từ ngày 22 đến 26 tháng 7 năm 1885; như vậy, tổng số thời gian vua [[Hàm Nghi]] ở lại Tân Sở là 14 ngày.
Mặc dù thành Tân Sở nằm ở địa thế hiểm trở, có núi non trùng điệp, có nhiều ngả đường kín đáo đổ về nơi đó. Hơn thế nữa, từ Tân Sở lại có nhiều ngã đường xuyên thông sang [[Lào]] và ra [[Bắc Kỳ]]. Rải rác trên các con đường xuyên rừng này, có những kho thóc cất giữ kín đáo...<ref>Theo [[Phạm Văn Sơn]] (tr. 48) và ''Hỏi đáp lịch sử Việt Nam (tập 4, tr. 227).</ref>. Song, bên cạnh những ưu điểm trên, qua thực tế, nó cũng đã bộc lộ không ít những nhược điểm.
 
Mặc giải vì sao thành Tân Sở nằm ở địa thế hiểm trở, có núi non trùng điệp, có nhiều ngả đường kín đáo đổ về nơi đó. Hơn thế nữa, từ Tân Sở lại có nhiều ngã đường xuyên thông sang [[Lào]] và ra [[Bắc Kỳ]]., Rải rác trên các con đường xuyên rừng này,lại có những kho thóc cất giữ kín đáo...<ref>Theo [[Phạm Văn Sơn]] (tr., 48)sách và ''Hỏi đáp lịch sử Việt Nam (tậpđã 4dẫn, tr. 227)48.</ref>. Song,nhưng bênkhông cạnhthể những ưuđược điểmdài trênlâu, quanhà thựcsử tế,học [[Phạm cũngVăn đãSơn]] bộcviết: lộ không ít những nhược điểm.
:''..."[[Tôn Thất Thuyết]] sở dĩ phải bỏ Tân Sở, vì có tới đây ông mới thấy vùng [[Cam Lộ]] có nhiều điều bất lợi, bởi không đông dân chúng và ít trù phú, việc tuyển mộ lính tráng sẽ khó khăn, việc tiếp vận quân lương, vũ khí sẽ bế tắt nốt...Ngoài ra, nếu quân Pháp chiếm đóng Cam Lộ, Tân Sở sẽ thành cái túi mà miệng túi đã đóng rồi, các lối ra biển, lên [[Lào]], vào Nam, ra Bắc đều sẽ bất tiện. Chính vì vậy, ông Thuyết muốn đem vua đi [[Nghệ Tĩnh]], là nơi có thể làm trung tâm lâu dài cho cuộc kháng chiến... Xét ra vua Hàm Nghi ở Tân Sở chỉ độ 4 hay 5 ngày"''... <ref>Phạm Văn Sơn, sách đã dẫn, tr. 50. </ref>.
 
Nhà sử học [[Phạm Văn Sơn]] viết:
:''… [[Tôn Thất Thuyết]] sở dĩ phải bỏ Tân Sở, vì có tới đây ông mới thấy vùng [[Cam Lộ]] có nhiều điều bất lợi, bởi không đông dân chúng và ít trù phú, việc tuyển mộ lính tráng sẽ khó khăn, việc tiếp vận quân lương, vũ khí sẽ bế tắt nốt...Ngoài ra, nếu quân Pháp chiếm đóng Cam Lộ, Tân Sở sẽ thành cái túi mà miệng túi đã đóng rồi, các lối ra biển, lên [[Lào]], vào Nam, ra Bắc đều sẽ bất tiện. Chính vì vậy, ông Thuyết muốn đem vua đi [[Nghệ Tĩnh]], là nơi có thể làm trung tâm lâu dài cho cuộc kháng chiến... Xét ra vua Hàm Nghi ở Tân Sở chỉ độ 4 hay 5 ngày"''... <ref>Phạm Văn Sơn, sách đã dẫn, tr. 50.</ref>.
GS. [[Trần Văn Giàu]] có những nhận xét tương tự:
:''"Từ [[Quảng Trị]], vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết đi lên Tân Sở. Thành Tân Sở được xây dựng từ 2 năm nay ở phía trong thành Cam Lộ, về hướng biên giới [[Lào]]-Việt, sau một cái đèo hiểm trở. Nhưng ở đây không phải là một địa bàn để hoạt động vì đất quá nghèo, dân quá ít. Ở Tân Sở nếu quân Pháp chiếm đóng Cam Lộ, Tân Sở sẽ trở thành cái rọ mà cửa đã đóng rồi; ra biển, lên [[Lào]], đi [[Nam Kỳ|Nam]], đi [[Bắc Kỳ|Bắc]] đều bất tiện. Thành Tân Sở có mấy vòng thành liên tiếp bao bọc một số lâu đài kho lẫm, trại lính, có đủ thóc, muối, súng, đạn, châu báu; nhưng vách thành [[Huế]] kia còn không đứng vững thì nếu ở đây, sao khỏi bị bắt một ngày nào?"''
:''"Vậy cho nên, ông Thuyết ra lệnh bỏ Tân Sở mà lên [[Quảng Bình]], nhưng đi đến Thụy Ba thì được tin quân Pháp đã đổ lên nơi đó rồi, để ngăn không cho đoàn Hàm Nghi ra vùng [[Thanh Hóa|Thanh]] - [[Nghệ An|Nghệ]]-[[Hà Tĩnh|Tĩnh]], là nơi mà hịch Cần Vương đã gây lên phong trào rất mạnh. Vua Hàm Nghi và ông Thuyết lộn về Tân Sở thì quân Pháp đã chiếm thành [[Cam Lộ]]. Ông Thuyết cùng vua đành phải vội vã rời Tân Sở đi đường núi, ra phía Bắc, bỏ lại vô số của cải, kho tàng, báu vật, và quân Pháp tràn đến cướp liền…"''<ref>Lược theo ''Tổng tập'' (tập I), Nxb Quân đội Nhân dân, [[Hà Nội]], 2006, tr.507</ref>.
 
Song theo quan điểm của Đỗ Bang, thì:
:"''Tân Sở tuy không phải là vị trí tối ưu nhưng lại là nơi có nhiều lợi thế so với các địa điểm khác. Bởi vì Tân Sở ở gần Kinh đô Huế, lúc thiên đô cũng nhanh, khi lực lượng phát triển, làm chủ được tình thế tiến về giải phóng Kinh thành Huế cũng tiện, lại an toàn hơn so với [[Nam Kỳ]] và [[Bắc Kỳ]] là nơi Pháp đã tấn công và thực hiện chính sách cai trị. Nơi đây, sau gần mười năm làm Tri huyện, [[Nguyễn Văn Tường]] cũng đã hiểu được thế đất, lòng người; đặc biệt là chính sách thu phục các dân tộc thiểu số của triều đình [[Huế]] mà Nguyễn Văn Tường có nhiều đóng góp xuất sắc. Vào thời điểm thiên đô ra Tân Sở (5 tháng 7 năm 1885), hạm đội Pháp có mặt ở [[Đà Nẵng]] và [[Đồng Hới]] để chờ bắt sống vua Hàm Nghi và phe chủ chiến, thì con đường thượng đạo từ Tân Sở lên [[Lào]] để ra Bắc, vào Nam là sinh lộ duy nhất của triều đình kháng chiến nhằm duy trì hoạt động yêu nước trong các bản làng, liên thông với hệ thống Sơn phòng được xây dựng khắp các tỉnh miền Trung để phát động [[phong trào Cần Vương]], cứu nước. Tuy không hoàn hảo, nhưng Tân Sở vẫn là giải pháp khả thi nhất"''<ref> Đỗ Bang, "Thành Tân Sở với phong trào Cần Vương" (tạp chí ''Cửa Việt'', bản điện tử [http://www.tapchicuaviet.com.vn/htt383_001/index.asp?main=ndd&TL=ND_QH&ID=528].</ref>.
 
==Chỉ còn là phế tích==
Hàng 41 ⟶ 43:
 
Trong cuộc hội thảo, các nhà nghiên cứu tỏ sự bức xúc và thái độ không hài lòng trước việc thành Tân Sở dù đã được công nhận xếp hạng di tích quốc gia từ năm [[1995]], nhưng cho đến hôm nay, di tích này đã thực sự trở thành một phế tích, vì ''“chẳng còn lại gì ngoài những vườn cây cao su và những bãi đất trống”'' <ref> Theo bài "Di tích quốc gia thành Tân Sở: Làm gì từ phế tích?" trên báo Lao động (bản điện tử ngày 14 tháng 7 năm 2010) [http://laodong.com.vn/Tin-tuc/Di-tich-quoc-gia-thanh-Tan-So-Lam-gi-tu-phe-tich/5591]. Xem thêm nội dung cuộc hội thảo tại đây: [http://www.tapchicuaviet.com.vn/htt383_001/index.asp?main=ndd&TL=SK_DT&ID=523].</ref>
 
==Chú thích==
{{reflist}}