Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến dịch Plei Me”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Giại đoạn III: Iadrang: replaced: → (2) using AWB
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 19:
 
'''Theo QGP:''' ngay trong tháng đầu đã có 2.974 chết và bị thương (có khoảng 1.700 lính Mỹ). Phá huỷ 88 xe quân sự (có 42 xe tăng và xe bọc thép), 5 khẩu pháo 105mm, bắn rơi hoặc bắn hỏng 59 máy bay.<ref name="ReferenceA"/>
|casualties2= '''Theo VNCH ước tính:''' ~6,000<ref name="Vinh Loc trang 111">Vinh Loc trang 111.</ref> (Tuy nhiên con số đã bị thổi phồng khi tổng lực lượng tham chiến của Quân Giải phóng chưa đến 5.500 quân)
 
'''Theo QGP:''' 554 chết và 669 bị thương <ref name="ReferenceA">Viện Lịch sử quân sự, Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975, Nhà xuất bản QĐND, 2003. Mục Chiến dịch Pleime</ref>
Dòng 27:
 
==Bối Cảnh==
Trước nguy cơ chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” bị phá sản hoàn toàn, Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa quân đội vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam Việt Nam, mở rộng đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân. Ngày 06/3/1965, đơn vị lính Mỹ đầu tiên đổ bộ vào Đà Nẵng và đến cuối năm 1965, số quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam lên tới 18,4 vạn, cùng 30 vạn quân ngụy. Mỹ hy vọng nhanh chóng “tìm diệt” quân chủ lực của Quân Giải phóng và hỗ trợ quân VNCH thực hiện kế hoạch bình định, xoay chuyển tình thế có lợi cho Mỹ và VNCH. Để thực hiện âm mưu đó, Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 (Sư đoàn tinh nhuệ nhất của quân đội Mỹ, trang bị trên 550 máy bay trực thăng) được điều động gấp lên địa bàn Tây Nguyên.
Cuối năm 1964, Chủ tịch Mao Trạch Đông của Trung Quốc ủng hộ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam nâng các lực lượng tấn công lên cấp sư đoàn trong việc xâm nhập miền Nam Việt Nam. Trong cuộc họp ngày 5 tháng 10 năm 1964, Mao Trạch Đông nói với Phạm Văn Đồng: "Theo đồng chí Lê Duẩn, các đồng chí có kế hoạch gửi một sư đoàn vào Nam. Có lẽ các đồng chí chưa cần gửi sư đoàn đó đi ngay. Khi làm việc này, chọn đúng ngày giờ rất là quan trọng."<ref>Vietnam War, 1961-1975, Wilson Center: ''According to Comrade Le Duan, you had the plan to dispatch a division [to the South]. Probably you have not dispatched that division yet. When should you dispatch it, the timing is important.''</ref>
 
Ngay sau khi quân Mỹ vào miền Nam, Quân ủy Trung ương chỉ đạo các chiến trường phương châm: ''“Đánh chủ lực ngụy, đồng thời sẵn sàng đánh quân Mỹ”''. Theo đó, Bộ Tư lệnh Chiến trường Tây Nguyên (B3) quyết định mở Chiến dịch Plâyme ở khu vực Đức Cơ-Bàu Cạn-Plâyme (tỉnh Gia Lai)-(quân Mỹ thường gọi là “Thung lũng Ia-Đrăng”).<ref name="plm">http://www.qdnd.vn/tap-chi-hau-can-quan-doi/lich-su-hau-can/cong-tac-hau-can-trong-chien-dich-playme-nam-1965-463530</ref>
 
Lúc này, tại miền Nam Việt Nam, giữa Quân Giải phóng và đối phương đã có sự thay đổi lớn về tương quan. Số quân Mỹ, đồng minh và VNCH đông hơn; vũ khí, trang bị kỹ thuật của họ hiện đại hơn nhiều. Liên quân Mỹ-VNCH lại chiếm ưu thế tuyệt đối về không quân, hải quân, pháo binh, xe tăng - thiết giáp. Với khả năng cơ động của trực thăng, họ có thể nhanh chóng chuyển hóa thế trận, làm đảo lộn một số nguyên tắc tác chiến.
 
Tuy vậy, quân Mỹ và đồng minh được đưa vào trong thời điểm mà chiến tranh nhân dân ở miền Nam đã phát triển cao. Các vùng chiến lược: rừng núi, đồng bằng - nông thôn và đô thị đều có sự xen kẽ giữa Quân Giải phóng và đối phương theo kiểu ''“cài răng lược”''. Vì thế, liên quân Mỹ-VNCH phải phân tán lực lượng trên toàn miền để đối phó. Cũng vào thời điểm này, các đơn vị tập trung của Quân Giải phóng đã có sự phát triển mới về chất, nhất là trình độ chỉ huy, tác chiến.
 
Đầu năm 1965, Sư đoàn 304 nhận lệnh chuẩn bị vào Miền Nam hỗ trợ Quân Giải phóng.<ref>Tướng Nguyễn Nam Khánh, Báo QĐND ngày 13/11/2005: ''Đầu năm 1965, Bộ Tổng tham mưu cho gọi tôi và đồng chí Sư đoàn trưởng sư đoàn 304 lên giao nhiệm vụ vào miền Nam chiến đấu''.</ref>
Hàng 37 ⟶ 43:
Phạm vi chiến dịch rộng khoảng 16.000km2, từ khu vực Bầu Cạn-Plây Me đến Đức cơ-Ia Đrăng thuộc tỉnh Gia Lai. Lực lượng Mỹ và VNCH trên địa bàn chiến dịch có 3 lữ đoàn thuộc sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ, 1 chiến đoàn dù, 1 chiến đoàn thiết giáp quân đội Sài Gòn, có pháo binh, máy bay, kể cả B52 sẵn sàng yểm trợ khi cần thiết<ref>vhttdl.gialai.gov.vn</ref>.
 
==Kế Hoạchhoạch và Thực Hiệnhiện==
===Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam===
Chiến dịch Pleime là đáp ứng của Quân đoàn II VNCH đối với chiến dịch Plâyme của Mặt Trận B3 trù tính chinh phục vùng Cao Nguyên với ba Trung đoàn - 32, 33 và 66 - áp dụng chiến thuật công đồn trại Pleime đả viện lực lượng chính của Quân đoàn II. Kế hoạch dự tính khởi đầu vào tháng 12 năm 1965. Trung đoàn 320 đã hoạt động tại vùng Cao nguyên từ đầu năm; Trung đoàn 33 mới xâm nhập vào tháng 9; Trung đoàn 66 cuối tháng 10 mới sẵn sàng xuất trại lên ̣đường xâm nhập vào Nam,<ref>Nguyễn Huy Toàn và Phạm Quang Định, Sư đoàn 304, tập II, trang 19.</ref> dự tính phải mất hai tháng mới tới chiến trường Cao Nguyên. Vào tháng 9 năm 1965, Bộ Tư lệnh Quân đoàn II phối hợp với Ban 3/MACV điều nghiên một kế hoạch triệt hủy ba trung đoàn của [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] đúng vào lúc ba trung đoàn qui tụ tại các vùng tập trung tại rặ̣ng núi Chu Prông để chuẩn bị tiến công.<ref>McChristian, J2/MACV, trang 6: ''The Chu Pong base was known to exist well prior to the Pleime attack and J2 MACV had taken this area under study in September 1965 as a possible B-52 target.''</ref>
 
Bộ Tư lệnh Chiến trường xác định mục đích và nhiệm vụ Chiến dịch Plâyme là ''“Tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ, tiếp tục làm tan rã một bộ phận quân ngụy, đánh bại kế hoạch tiến công mùa khô của chúng, mở rộng vùng đứng chân của ta, làm chủ đại bộ phận rừng núi và nông thôn, nhất là vùng núi có ý nghĩa chiến lược”.''<ref name="plm"/>
 
Chiến dịch Pleime là đòn đáp trả với việc Quân đoàn II VNCH tấn công Quân Giải phóng trước đó. Quân Giải phóng chọn mục tiêu để đối phương bộc lộ sơ hở để tiến công nhằm tạo thế và lực tiếp tục thúc đẩy chiến dịch phát triển. Tuy nhiên, những hiểu biết của Quân Giải phóng về tổ chức biên chế, nghệ thuật tác chiến của quân Mỹ nói chung, Sư đoàn kỵ binh bay không vận số 1 Mỹ nói riêng khi đó còn rất hạn chế. Quân Giải phóng chưa có kinh nghiệm tác chiến với quân Mỹ ở Tây Nguyên, vì thế, ý định tác chiến của Bộ tư lệnh chiến dịch là vây điểm, đánh viện, đánh quân VNCH trước, sau đó kéo quân Mỹ ra xa căn cứ để tiêu diệt. Thực tiễn diễn biến chiến dịch đã diễn ra theo hướng thuận lợi cho Quân Giải phóng. Khi Quân Giải phóng tiêu diệt quân VNCH, chiếm đồn Chư Ho, bao vây đồn Plei-me, sau đó đánh bại Chiến đoàn thiết giáp 3 VNCH đến ứng cứu đã buộc Sư đoàn kỵ binh không vận 1 Mỹ phải đưa hai tiểu đoàn của Lữ đoàn 1 vào tham chiến.<ref name="ditichlichsuvanhoa.com">http://ditichlichsuvanhoa.com/dttc/DIA-DIEM-CHIEN-THANG-PLEIME-a845.html</ref>
 
Để phục vụ chiến đấu, Quân Giải phóng huy động ba Trung đoàn - 320, 33 và 66, các đơn vị đặc công và du kích địa phương. Trung đoàn 320 đã hoạt động tại vùng Cao nguyên từ đầu năm; Trung đoàn 33 mới vào từ tháng 9; Trung đoàn 66 cuối tháng 10 mới chuẩn bị lên ̣đường vào Nam,<ref>Nguyễn Huy Toàn và Phạm Quang Định, Sư đoàn 304, tập II, trang 19.</ref> QGP dự tính phải mất hai tháng mới tới chiến trường Cao Nguyên. Vào tháng 9 năm 1965, Bộ Tư lệnh Quân đoàn II-VNVH phối hợp với Ban 3/MACV-Mỹ xây dựng kế hoạch triệt hủy ba trung đoàn của [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] đúng vào lúc ba trung đoàn đang tập kết tại các vùng tập trung tại rặ̣ng núi Chu Prông để chuẩn bị tiến công.<ref>McChristian, J2/MACV, trang 6: ''The Chu Pong base was known to exist well prior to the Pleime attack and J2 MACV had taken this area under study in September 1965 as a possible B-52 target.''</ref>
 
Để thu hút, căng kéo nhiều quân Mỹ lên chiến trường Tây Nguyên để tiêu diệt, giúp cho các chiến trường khu 5 Nam Bộ mở rộng vùng giải phóng, từ yêu cầu nhiệm vụ trên, Bộ Tư lệnh B3 (Tây Nguyên) hạ quyết tâm mở Chiến dịch Plei Me nhằm tiêu diệt bộ phận lớn quân VNCH và quân Mỹ, cầm chân chúng tại đây.<ref>http://baothainguyen.org.vn/tin-tuc/chinh-tri/y-nghia-quan-trong-cua-chien-thang-plei-me-232875-97.html</ref>
 
Khi Bộ Tư lệnh Mặt Trận B3 lấy quyết định phát động chiến dịch Plâyme vào ngày 19 tháng 10 năm 1965 sớm hơn dự tính với chỉ duy hai Trung đoàn 32 và 33, lợi dụng khi các toán lính kỵ binh Mỹ mới lên vùng Cao Nguyên lập trại tại An Khê chưa sẵn sàng chiến đấu, trong khi Trung đoàn 66 - QGP chưa có mặt tại chiến trường, kế hoạch dùng oanh tạc trải thảm B-52 bị đình trệ. Bộ Tư lệnh Quân đoàn II-VNCH phải thay đổi kế hoạch nguyên thủy. Kế hoạch thích nghi dùng tới chiến thuật trì hoãn chiến tại Pleime.
 
Về chủ trương, Quân Giải phóng thực hiện “vây điểm Pleime buộc địch phải viện quân theo thứ tự, ý định của ta; dụ quân viện của quân ngụy đánh trước, sau đó dụ lính Mỹ ra để vây diệt”.
 
====Binh lực====
 
=====Chủ lực=====
*3 trung đoàn bộ binh (Trung đoàn 320, 33 và 66),
*Tiểu đoàn Đặc công 952,
*Tiểu đoàn Pháo binh mang vác 200,
*01 tiểu đoàn súng máy phòng không 12,7mm
=====Địa phương=====
*01 tiểu đoàn tập trung,
*01 đại đội đặc công,
*01 đại đội súng cối;
*mỗi xã có 1 trung đội du kích...<ref name="plm"/>
 
===Quân đội Mỹ và Quân lực Việt Nam cộng hòa===
Khi Bộ Tư lệnh Mặt Trận B3 lấy quyết định khới phát chiến dịch Plâyme vào ngày 19 tháng 10 năm 1965 sớm hơn dự tính với chỉ duy hai Trung đoàn 32 và 33, lợi dụng khi các toán lính kỵ binh Mỹ mới lên vùng Cao Nguyên lập trại tại An Khê chưa sẵn sàng chiến đấu, trong khi Trung đoàn 66 - QGP chưa có mặt tại chiến trường, kế hoạch dùng oanh tạc trải thảm B-52 bị đình trệ. Bộ Tư lệnh Quân đoàn II phải thay đổi kế hoạch nguyên thủy. Kế hoạch thích nghi dùng tới chiến thuật trì hoãn chiến tại Pleime.
 
Về phía QLVNCH, Chiến dịch Pleime khai triển qua ba giai đoạn: Pleime, Chuprong và Iadrang.
Hàng 48 ⟶ 79:
#Giai đoạn Iadrang kéo dài từ 18 đến 26 tháng 11, trong khi Lữ đoàn Dù VNCH thực hiện cuộc hành quân Thần Phong 7, được yểm trợ bởi Tiểu đoàn 2/5 Không Kỵ với cuộc hành quân Silver Bayonet II.
 
Mỹ muốn ''“giành quyền kiểm soát cao nguyên chiến lược để giành chiến thắng ở miền Nam Việt Nam”''. Tin tưởng vào ưu thế của sức mạnh quân sự, họ chủ động tiến công “tìm diệt”, nhằm tiêu diệt quân chủ lực, phá căn cứ kháng chiến của Quân Giải phóng, ngăn chặn, chia cắt hành lang chiến lược từ hậu phương miền Bắc vào chiến trường miền Nam của Quân Giải phóng, khu vực Tây Nguyên lúc này đã trở thành chiến trường lớn.
===Giại đoạn I: Pleime===
Khi Bộ Tư lệnh Mặt Trận B3-QGP phát lệnh tiến công trại Pleime ngày 19 tháng 10, Bộ Tư lệnh Quân đoàn II-VNCH phản ứng với cuộc hành quân Dân Thắng 21 với chủ đích đẩy lui chứ không tiêu hủy hai trung đoàn tấn công. Chỉ có hai đại đối Lực lượng Đặc Biệt hỗn hợp VNCH-Mỹ được tăng phái cho trại và một thiết đoàn đặc nhiệm tiếp cứu gồm một ngàn quân lính được phái đi tiếp cứu trại ngày hôm sau 20 tháng 10. Phận vụ đẩy lui được giao cho hỏa lực không quân tại vùng quanh trại và ổ phục kích.<ref name="Pleime, Project CHECO Report 1966">The Siege of Pleime, Project CHECO Report, ngày 24 tháng 2 năm 1966, HQ PACAF, Tactical Evaluation Center</ref>. Bộ Tư lệnh Quân đoàn II biết là đối phương sẽ tập trung quân lại và trở lại tiến công trại lần thứ hai.<ref>Vĩnh Lộc, trang 94: ''"Cuộc hành quân Dân Thắng 21 chấm dứt, trại Pleime vững mạnh trở lại, nhưng trong số hai Trung đoàn V.C. đã tham dự, ta mới gây cho chúng được hơn 400 tổn thất nhân mạnh. Sự rút lui của địch là một chủ trương sáng suốt và hợp lý của BCH mặt trận V.C. nhưng địch sẽ tìm cách rửa hận và vì trại Pleime hẻo lánh còn là một cái gai trước mắt."''</ref> Lực lượng Mặt trận B3 thực hiện vây điểm diệt viện, tiến công đồn Chư Ho và bao vây đồn Plây Me (19-10), cách Plây-cu 30&nbsp;km, buộc QĐHK và QLVNCH đưa lực lượng từ Plây-cu đến giải tỏa, bị QGP phục kích đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn biệt động quân, tiểu đoàn 1 bộ binh (Trung đoàn 42), chiến đoàn thiết giáp VNCH trên đường số 21. Ngày 25-10, Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên ra lệnh mở vây để tập trung đánh Mỹ<ref name="vhttdl.gialai.gov.vn"/>.
 
====Binh lực====
Việc điều dụ quân Mỹ vào các địa bàn rừng núi lựa chọn, xa căn cứ của chúng, nhằm hạn chế mặt mạnh, khoét sâu điểm yếu để đánh thắng các trận then chốt là vấn đề rất quan trọng. Tuy nhiên, với một đội quân nhà nghề, khả năng thay đổi tương quan lực lượng và phương thức tác chiến nhanh, có nhiều phương tiện trinh sát hiện đại thì việc điều dụ QĐHK theo ý định của mình đòi hỏi rất công phu. Thực tiễn trận Ia Đrăng cho thấy, khi viện binh VNCH (cơ động giải tỏa đồn Plây-me) bị Quân Giải phóng đánh thiệt hại nặng, Mỹ đã cho đổ quân xuống Bầu Cạn và Plâyngo (cách Plây-me 10&nbsp;km về phía Tây) để thăm dò, thừa cơ đánh úp chủ lực của Mặt trận B3<ref>http://tapchiqptd.vn/vi/tim-hieu-truyen-thong-quan-su/net-dac-sac-cua-nghe-thuat-tac-chien-tran-ia-drang-nam-1965/8339.html</ref>.
=====Lực lượng tại chỗ=====
*Đồn Plâyme có khoảng 500 lính VNCH với 12 cố vấn Mỹ có 10 đại liên, 27 trung liên, 10 cối 60 và 80 mm, 01 cối 106,7 mm; có 6-7 lô cốt bê tông, tường cao 1,5 m, rộng 0,8 m
*Đồn Chư Ho và đồn Đức Cơ với quân số, vũ khí tương đương Đồn Plâyme ở mỗi đồn
=====Lực lượng dự bị=====
*1 Sư đoàn dù
*1 Sư đoàn thủy quân lục chiến
*2 chiến đoàn cùng với thiết giáp, vũ khí, trang bị hiện đại<ref name="plm"/>
=====Lực lượng Mỹ=====
 
Sư đoàn kỵ binh không vận số 1
*16.000 quân
*434 máy bay các loại, chủ yếu là trực thăng, (có cả loại Chinook CH47 có thể mang dàn pháo 105mm),
*1.600 xe các loại, trong đó có 26 xe bọc thép loại nhẹ, 54 khẩu pháo 105mm, 78 dàn rốc két với 1.872 ống phóng cỡ 70mm lắp trên trực thăng UH.1B... (1 thăng UH.1B có hỏa lực tương đương 12 khẩu pháo 105mm; hỏa lực 1 tiểu đoàn trực thăng UH.1B sẽ mạnh gấp 6 lần tiểu đoàn pháo hỗn hợp)
 
=====Lực lượng hỗ trợ ở Tây Nguyên=====
======Pleiku======
*Sở chỉ huy vùng II chiến thuật (VNCH)
*Sư đoàn số 4 không quân (VNCH)
 
======Buôn Ma Thuột======
*Sư đoàn bộ binh số 2 (VNCH)
*1 chiến đoàn thiết giáp (VNCH)
 
======Đắc Pét đến Plây Cần======
*4 liên đoàn biệt động quân (số 2, 6, 21 và 22)
======An Khê (Gia Lai)======
*Sư đoàn “Mãnh Hổ” (Hàn Quốc)
 
==Diễn biến==
 
===Giại đoạn I: Pleime (19-29/10)===
Khi Bộ Tư lệnh Mặt Trận B3-QGP phát lệnh tiến công trại Pleime ngày 19 tháng 10, Bộ Tư lệnh Quân đoàn II-VNCH phản ứng với cuộc hành quân Dân Thắng 21 với chủ đích đẩy lui chứ không tiêu hủy hai trung đoàn tấn công. Chỉ có hai đại đội Lực lượng Đặc Biệt hỗn hợp VNCH-Mỹ được tăng viện cho trại và một thiết đoàn đặc nhiệm tiếp cứu gồm một ngàn quân lính được phái đi tiếp cứu trại ngày hôm sau 20 tháng 10. Nhiệm vụ đẩy lui được giao cho hỏa lực không quân tại vùng quanh trại và ổ phục kích.<ref name="Pleime, Project CHECO Report 1966">The Siege of Pleime, Project CHECO Report, ngày 24 tháng 2 năm 1966, HQ PACAF, Tactical Evaluation Center</ref>.
 
Bộ Tư lệnh Mặt trận B3-QGP dự kiến sử dụng lực lượng Trung đoàn 33 tiêu diệt căn cứ Chư Ho và vây ép đồn Pleime, Trung đoàn 320 bố trí sẵn thế trận phục kích quân đội Sài Gòn đi cứu viện trên đoạn dài khoảng 3km, dọc đường 21 từ Pleiku đi Pleime, nơi đi qua các điểm cao 600, 607, Pơ Lu, đồi Độc Lập. Sau đó Trung đoàn 320 chuyển sang làm lực lượng dự bị và bảo vệ phía sau, 2 bên sườn đội hình QGP tham gia chiến dịch.
 
Bộ Tư lệnh Quân đoàn II (VNCH) biết là đối phương sẽ tập trung quân lại và trở lại tiến công trại lần thứ hai.<ref>Vĩnh Lộc, trang 94: ''"Cuộc hành quân Dân Thắng 21 chấm dứt, trại Pleime vững mạnh trở lại, nhưng trong số hai Trung đoàn V.C. đã tham dự, ta mới gây cho chúng được hơn 400 tổn thất nhân mạnh. Sự rút lui của địch là một chủ trương sáng suốt và hợp lý của BCH mặt trận V.C. nhưng địch sẽ tìm cách rửa hận và vì trại Pleime hẻo lánh còn là một cái gai trước mắt."''</ref>
 
Lực lượng Mặt trận B3 thực hiện vây điểm diệt viện, tiến công đồn Chư Ho và bao vây đồn Plây Me (19-10), cách Plây-cu 30&nbsp;km, buộc QĐHK và QLVNCH đưa lực lượng từ Plây-cu đến giải tỏa, bị QGP phục kích đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn biệt động quân, tiểu đoàn 1 bộ binh (Trung đoàn 42), chiến đoàn thiết giáp VNCH trên đường số 21. Ngày 25-10, Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên ra lệnh mở vây để tập trung đánh Mỹ<ref name="vhttdl.gialai.gov.vn"/>.
 
Việc điều dụ quân Mỹ vào các địa bàn rừng núi lựa chọn, xa căn cứ của đối phương, nhằm hạn chế mặt mạnh, khoét sâu điểm yếu để đánh thắng các trận then chốt là vấn đề rất quan trọng. Tuy nhiên, với một đội quân nhà nghề, khả năng thay đổi tương quan lực lượng và phương thức tác chiến nhanh, có nhiều phương tiện trinh sát hiện đại thì việc điều dụ QĐHK theo ý định của mình đòi hỏi rất công phu. Thực tiễn trận Pleime-Ia Đrăng cho thấy, khi viện binh VNCH (cơ động giải tỏa đồn Plây-me) bị Quân Giải phóng đánh thiệt hại nặng, Mỹ đã cho đổ quân xuống Bầu Cạn và Plâyngo (cách Plây-me 10&nbsp;km về phía Tây) để thăm dò, thừa cơ đánh úp chủ lực của Mặt trận B3<ref>http://tapchiqptd.vn/vi/tim-hieu-truyen-thong-quan-su/net-dac-sac-cua-nghe-thuat-tac-chien-tran-ia-drang-nam-1965/8339.html</ref>.
 
===Giại đoạn II: Chuprong===
Hàng 57 ⟶ 127:
 
Động tác lùa địch được giao cho Lữ đoàn 1 Không Kỵ với cuộc hành quân All the Way. Từ ngày 27 tháng 10 đến ngày 9 tháng 1, các toán QGP lẻ tẻ bị tuần tự đẩy lui từ Pleime về Chuprong. Ngày 9 tháng 11, Lữ đoàn 3 Không Kỵ thay thế Lữ đoàn 1 Không Kỵ với cuộc hành quân Silver Bayonet I nhằm khuyến dụ đối phương tập trung quân để chuẩn bị tiến công lần thứ hai..<ref>Kinnard, trang 67, 73 and 76: ''"By this time Field Force Vietnam had asked the division to consider moving this operations east of Pleime [...] The movement and shift in emphasis from west to east was to further stimulate a forthcoming decision from the NVA division headquarters [...] With American units seemingly withdrawing to the east of Pleime, the decision was to attempt to regain its early advantage with an attack. The target once again was the Pleime CIDG Camp. The division headquarters set the date for attack at 16 November, and issued orders to its three regiments."''</ref> Bộ Tư lệnh Mặt Trận B3 bị trúng kế và ngày 11 tháng 11 ra lệnh cho ba trung đoàn tập trung lại (Trung đoàn 32 tại YA820070, Trung đoàn 33 tại YA 940011, và Trung đoàn 66 tại quanh YA 9104)<ref>McChristian, trang 44.</ref> để chuẩn bị tiến công ấn định vào ngày 16 tháng 11. Bộ Tư Lệ Quân đoàn II thừa cơ ấn định oanh tạc trải thảm B-52 tại trung tâm khối tại quanh YA 8702, cách xa bãi đáp X-Ray 7 cây số về hướng tây, vào chiều ngày 15 tháng 11<ref>Kinnard, trang 88</ref>.
 
Tuy nhiên, kế hoạch của Mỹ-VNCH thất bại khi QGP dựa vào trận địa đã chuẩn bị sẵn để đánh chặn quyết liệt, tiêu diệt hai đại đội quân Mỹ, dồn số còn lại xuống thung lũng I-a Đrăng để co cụm phòng ngự. Với chiến thuật "nắm thắt lưng địch mà đánh", QGP đã khiến cho đội hình quân Mỹ ở thung lũng I-a Đrăng bị rối loạn. Phát huy thế thắng, QGP tập trung lực lượng, tạo thế bao vây, ngăn chặn, cô lập quân Mỹ. Bằng cách đánh gần, bao vây chia cắt, sau hơn 8 giờ chiến đấu ác liệt dưới các loại hỏa lực bom và đạn pháo của Mỹ, QGP đã tiêu diệt gần hết tiểu đoàn quân Mỹ và đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn khác của sư đoàn kỵ binh không vận Mỹ.<ref name="ditichlichsuvanhoa.com"/>
 
==== Trận đánh bãi đáp X-Ray ====
Hàng 66 ⟶ 138:
 
Khi Tiểu đoàn 1/7 Không Kỵ không giải cứu nổi một trung đội bị vây khốn, Tiểu đoàn 2/5 thuộc Lữ đoàn 2 Không Kỵ được phái vào chiến trường sáng ngày 15 tháng 11. Tuy nhiên, để che mắt đối phương nghĩ là tương quan lực lượng vẫn là 2:2,<ref>Tướng Nguyễn Hữu An, Chiến Trường Mới, 2002: ''"Ở sở chỉ huy tiền phương chúng tôi lúc này nắm được tình hình chắc hơn. Dưới trung đoàn 66 cho biết: tiểu đoàn 9 đã liên lạc được với tiểu đoàn 7. Như vậy tương quan lực lượng trong khu vực nhỏ này, mỗi bên có hai tiểu đoàn."''</ref> tiểu đoàn tăng phái này được trực thăng vận đến bãi đáp Victor cách bãi đáp X-Ray 5 số và âm thầm lội bộ đến chiến trường, tới nơi vào lúc trưa. Trung đội bị cô lập được giải thoát vào lúc 3 giờ chiều.
 
Ngày 8/11/1965, Đảng uỷ Mặt trận B3-QGP tổ chức cuộc họp mở rộng, đánh giá tình hình và nhận định vài ngày tới quân Mỹ sẽ mở cuộc tấn công quyết giành thắng lợi về chiến thuật, đây là cơ hội tốt cho bộ đội Tây Nguyên tiêu diệt gọn đơn vị quân Mỹ.
 
==== Hành quân trải thảm bom B-52 ====
Hàng 75 ⟶ 149:
 
===Giại đoạn III: Iadrang===
Theo phía QGP, địch đã đổ bộ xuống một số nơi và đang nằm lại sâu trong hậu phương của QGP, đây là cơ hội rất tốt để tiêu diệt địch. Đảng ủy và bộ tư lệnh B3 chu trương tạm thời đình chỉ các trận đánh ở khu vực khác, trước mát tập trung đánh Mỹ đã ra với mục đích tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, đánh bại một bước chiến thuật đổ bộ trực thăng nhảy cóc của sư đoàn không vận số 1.
Ngày 17 tháng 11, dựa vào nguồn tình báo, Bộ Tư lệnh Quân đoàn II thẩm định là đối phương đã mất 2/3 tổng số lực lượng và lấy quyết định đánh dứt điểm chiến dịch bằng cách tung vào chiến trường Lữ đoàn Dù VNCH gồm 5 tiểu đoàn.<ref name="Vinh Loc, chương VI">Vinh Loc, chương VI</ref>. Đó là cuộc hành quân Thần Phong 7, được yểm trở bởi hỏa lực pháo binh đặt tại căn cứ tân lập LZ Crooks và bởi Lữ đoàn 2 Không Kỵ Mỹ, thực hiện một thế gọng kìm mang tên hành quân Silver Bayonet II.
 
Sáng 14 tháng 11, pháo binh Mỹ ở phía Ia me Plây Nso (04-08) bắn về đông bắc dãy Chư Pông, máy bay trinh sát L19 và trực thăng bay thấp bắn phá. 10 giờ, Mỹ đổ tiểu đoàn 1 (thiếu) thuộc trung đoàn 7 lữ 3 sư đoàn không vận xuống khu vực (02 90 9) đông báo Chư Pông. Một bộ phận đổ xuống gần tiểu đoàn bộ tiểu đoàn 9-QGP tổ chức một mũi đánh vào đại đội 11 (tiểu đoàn 9) ở phía bạc. Từ khi Mỹ đổ quân và tiến vào, tiểu đoàn 9 không hề biết, mãi tới khì lính Mỹ vào gần, bắn chết một trinh sát cảnh giới phía trước của tiểu đoàn, lúc đó QGP mới biết bị địch tập kích. Ngay sau khi nổ súng được vài phút, đại đội 13-QGP ở phía nam nghe súng nổ đã kịp thời vận động xuống phối hợp, đại đội 1 cũng huy động toàn bộ lực lượng xuất kích đánh vào quân Mỹ từ hướng tây bắc xuống. Đến khoảng 11 giờ, tiểu đoàn trương chạy về đến chỗ đại đội 11 nắm được đại đội 11 và một bộ phận của đại đội 12, một khẩu súng cối 82mm tiếp tục tổ chức đánh vào quân Mỹ, trước sức tiến công mạnh của các cánh quân của QGP, cả hai mũi xung phong cuả Mỹ đều bị bẽ gãy lính Mỹ phải lui về cụm lại cách tiểu đoàn 9 hơn 1&nbsp;km về phla đông để chống lại QGP. 17 gìờ Mỹ dùng phi pháo đánh liên tục vào đội hình QGP, các đại đội tự động rút khỏi vị trí (đại đội 11, 12, 15 rút về phla tây bắc suối Khôn Chưa, đại đội 13 rút về hướng tiểu đoàn 7). Kết quả tiểu đoàn 9 đa đánh bại cuộc tập kích cua Mỹ, diệt khoảng 150 tên, bắn rơi một máy bay chiến đấu.
Ngày 17 tháng 11, dựa vào nguồn tình báo, Bộ Tư lệnh Quân đoàn II-VNCH thẩm định là đối phương đã mất 2/3 tổng số lực lượng và lấy quyết định đánh dứt điểm chiến dịch bằng cách tung vào chiến trường Lữ đoàn Dù VNCH gồm 5 tiểu đoàn.<ref name="Vinh Loc, chương VI"/>. Đó là cuộc hành quân Thần Phong 7, được yểm trở bởi hỏa lực pháo binh đặt tại căn cứ tân lập LZ Crooks và bởi Lữ đoàn 2 Không Kỵ Mỹ, thực hiện một thế gọng kìm mang tên hành quân Silver Bayonet II.
 
21 giờ 30 phút tiểu đoàn 7 nhận lệnh tổ chức tập kích ngay vào quân Mỹ ở khu vực phía đông tiểu đoàn 9. Lực lượng sử dụng gồm lại đội 1 và 2 có hai khẩu súng cối 82mm cua đại đội 15. 22 giờ 50 phút, chuẩn bị xong bắt đầu xuất phát. Lệnh của trung đoàn là đúng 2 giờ ngày 15 phải nổ súng nhưng vì chiến sĩ dẫn đường bị lạc, pháo bắn chặn và cây cối đổ ngổn ngang nên mãi 5 giờ mới phát hiện được vị trí của lính Mỹ. Tiểu đoàn triển khai cách địch khoảng 150m, dùng hai khẩu cối 82mm bắn 14 qua sau đó lệnh cho đại đội 1 và 2 xung phong. Trung đội 2 đại đội 2 được tăng cường mạnh nên ngay lúc đầu đã nhanh chóng thọc thẳng vào vị tri chỉ huy của lính Mỹ, diệt lực lượng điện đài thông tin làm cho chúng chạy tan tác, chỉ sau khoang 10 phút chiến đấu đại đội 1 và 2 đã cơ bản chiếm được trận địa cua lính Mỹ, sau 25 phút lùng sục thu dọn chiến trường đến 5 giờ 45 phút, QGP rời khỏi trận địa. Trước khi rút, tiểu đoàn lệnh đại đội 1 để lại một trung đội và hai khẩu súng cối để phục kích nếu trực thăng địch xuống lấy xác thì đánh. Trên đường rút, các đại đội của tiểu đoàn 7 dùng súng bắn rơi tại chỗ 4 chiếc trực thăng. Suốt ngày 15 địch cho nhiều lần máy bay hạ cánh xuống lấy xác nhưng đều bị cối QGP bắn trúng không dám đỗ xuống. 17 giờ 30 phút ngày 15 tháng 11, Mỹ đổ hai đại đội xuống để chiếm lại trận địa và thu dọn xác chết, QGP dùng cối bắn cháy hai chiếc trực thăng địch xuống cụm lại thành ba cụm ở phía bắc trận địa cũ.
Chiến dịch Pleime kết thúc ngày 26 tháng 11 năm 1965, khi không còn bóng dáng [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] trong vùng hành quân của Mỹ-VNCH.<ref>Vĩnh Lộc, trang 132.</ref>
 
Chiều 16 tháng 11 tiểu đoàn xuất phát, trên đường về do phi pháo Mỹ bắn nhiều nên đội hình bị đứt quãng. Sau khi vượt qua cầu Ba Bi tiểu đoàn tạm dừng lại điều chỉnh đội hình, nấu cơm ăn đến 5 giờ ngày 17 hành quân tiếp. Khoảng 12 giờ, đại đội 8-QGP đi đầu đã đến ngã ba không thấy địch, đại đội 6 đến suối cầu gặp đại đội 1 tiểu đoàn 1, phía trước có hai trung đội địch đang tiến về hướng ta, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 8 Lê Xuân Phôi cho tất cả dừng lại triển khai đội hình chuẩn bị chiến đấu, đồng thời cho liên lạc báo cho đại đội 8 biết tình hình. Tiểu đoàn tổ chức thành hai thê đội: Thê đội 1 gồm đại đội 6 (thiếu trung đội 3). Thê đội 2 gồm đại đội 7 và trung đội 3 đại đội 6. Trong vài phút, đại đội 6 đã bí mật triển khai xong thì phát hiện địch đang đi về hướng ta. Khi chúng vào gần cách ta khong 200m, chúng đột ngột nổ súng, đại đội trưởng đại đội 6 thấy địch còn ở xa nên không cho đại đội nổ súng đợi chúng vào gần hn. Khi còn cách 40 đến 50 mét đại đội trưởng lệnh cho đại liên bắn, trung đội 1 và 2 cũng bắn mạnh vào đội hình địch và xung phong. Chỉ trong khoảng 5 phút hai trung đội Mỹ đã bị tiêu diệt hoàn toàn. 12 giờ 7 phút, đội hình chính của chúng ta tới cách ta khong 300m, chúng hốt hoảng bắn vào đội hình của ta. Lực lượng địch đông, nhưng đại đội 6 chiếm địa hình có lợi nên nắm được thế chủ động, đại đội 8 khi nghe tiếng súng cũng cho bộ đội quay lại đánh vào bên sờn quân địch. Tiểu đoàn trưởng Lê Xuân Phôi chỉ huy đơn vị tiến công vào giữa đội hình quân Mỹ, làm lính Mỹ bị rối loạn và bị cắt rời. Cùng lúc đó, bộ đội Luân tiểu đoàn phó tiểu đoàn 1 trung đoàn 33 đang chỉ huy bộ đội lùng địch ở hướng khác nghe súng nổ liền dẫn đơn vị đến phối hợp. Lính Mỹ bị các lực lượng QGP khép vòng vây giữa thung lũng Ia đrăng. Ở trên không, máy bay lên thẳng, máy bay phản lực quần lượn nhưng không có cách nào cứu nguy được cho lính Mỹ ở dưới vì bộ đội ta áp sát, đánh gần. Trận đánh đang tiếp diễn thì tiểu đoàn trưởng Lê Xuân Phôi hy sinh, chính trị viên phó tiểu đoàn cũng bị thương nặng phải đưa ra khỏi trận địa. Đồng chí Luân tiểu đoàn phó tiểu đoàn 1 trung đoàn 33 chỉ huy luôn cả hai đơn vị.
 
Quân Mỹ bị đánh tan tác, mạnh ai người đó chạy. Các chiến sĩ QGP giữ vững được đội hình, hình thành tổ yểm hộ cho nhau diệt địch. Trận đánh giáp lá cà quyết liệt bằng lưỡi lê, báng súng kéo dài cho đến gần tối. Chiến sĩ Cao Đình Thơ bằng một đường lê chính xác đã đâm chết một tên Mỹ cứu được đồng đội đang ôm vật nhau với chúng giữa bãi cỏ. Chính trị viên phó đại đội Đinh Văn Đế ba lần bị thương vẫn dồn hết sức còn lại đuổi theo bắn chết năm tên Mỹ. Khi hết đau anh dùng dao đâm chết ba tên khác. Khoảng 16 giờ, tiểu đoàn phó Luân hy sinh, cán bộ chiến sĩ tiểu đoàn 8 và tiểu đoàn 1 tiếp tục chiến đấu cho đến khi trận đánh kết thúc. Lê Khắc Nga, Lê Văn Điều xông xáo thọc vào đội hình địch mỗi người diệt hơn 20 lính Mỹ, đạt danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ cấp ưu tú đầu tiên ở chiến trường. Trận quyết chiến ở thung lung Iađrăng diễn ra suốt tám giờ đồng hồ, tiểu đoàn 2 ky binh vận Mỹ chỉ còn 12 tên sống sót chạy về căn cứ.
 
Do nắm chắc tình hình, dự kiến tình huống cụ thể, tỉ mỉ và sát thực tế, nên Quân Giải phóng chủ động tổ chức tác chiến trong diễn biến đợt 3. Đặc biệt, ngày 17/11/1965 kết thúc loạt trận thứ 4, bộ đội Tây Nguyên đã diệt gọn 1 tiểu đoàn quân Mỹ tại khu vực LZ X RAY (tọa độ X) được coi là dấu mốc của trận then chốt chiến dịch. Quân Mỹ sau 3 ngày tham chiến, quân số bị hao hụt nhiều do thương vong, tinh thần binh lính mệt mỏi, tối 16/11/1965, tiểu đoàn 1 từ khu vực tọa độ X rút về bãi đỗ Albany để chờ thay phiên.
Sáng 17/11/1965, tiểu đoàn 2 của Bob McDade thuộc trung đoàn kỵ binh bay số 7 và tiểu đoàn 2 của Bob Tully, thuộc trung đoàn kỵ binh bay số 5, nhận nhiệm vụ thay phiên hành quân đến 2 khu vực gần tọa độ X nhằm ngăn chặn đường rút lui và tiêu diệt đối phương. Như vậy, từ ngày 14 - 17/11/1965, cả 3 tiểu đoàn của lữ đoàn kỵ binh bay số 3, đã bị Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên “điều” vào tham chiến tại thung lũng Ia-Đrăng.
 
===Diện và Điểm===
Hàng 88 ⟶ 169:
===Tuyên bố của Mỹ - VNCH===
 
Việt Nam Cộng hòa ước tính tổn thất phía [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] như sau: chết (đếm xác) 4.254, chết (ước tính) 2.270, bị thương 1.293, bị bắt 179, 169 súng cộng đồng và 1,027 súng cá nhân bị mất. Tổng số này bao gồm tổn thất do 5 ngày bom trải thảm B-52 gây nên.<ref name="Vinh Loc trang 111"/> Theo nguồn của [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]] thì tổn thất của họ trong chiến dịch là 554 chết và 669 bị thương, chiếm 23% quân số tác chiến<ref name="ReferenceA"/> Con số của Mỹ và Việt Nam cộng hòa đưa ra bị cho là thiếu thuyết phụ khi toàn bộ lực lượng của QGP chưa đến 5.500 người.
 
Tổn thất phía HK: chết 300, bị thương 524, mất tích 4.<ref name="Kinnard, trang 122"/> Không lực Mỹ mất 6 HU-1B, 2 B-57, 3 A-1E bị bắn hạ và 3 C-123 bị trúng đạn hư hỏng ít nhiều.<ref name="Pleime, Project CHECO Report 1966"/>.
Hàng 96 ⟶ 177:
===Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam===
 
QGP tuyên bố loại khỏi vòng chiến đấu gần 3.000 địch, phá huỷ 89 xe quân sự (có 42 xe tăng và xe bọc thép), bắn rơi 59 máy bay.{{fact}}
 
==Ý nghĩa==
 
Chiến dịch Pleime là chiến dịch đầu tiên quân Giải phóng và nhân dân Tây Nguyên đánh thắng oanh liệt cả quân Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng hòa - đặc biệt là lực lượng tinh nhuệ được trang bị hiện đại cơ động chủ yếu bằng trực thăng: Sư đoàn Kị binh Không vận số 1 của Mỹ.<ref>http://antg.cand.com.vn/Ho-so-Interpol/Chien-dich-Pleime-%E2%80%93-Tay-Nguyen-nhin-tu-nuoc-My-293300/</ref>
 
Thắng lợi của chiến dịch Plây Me có ý nghĩa to lớn cả về chính trị và quân sự, khẳng định sự trưởng thành vượt bậc của Quân Giải phóng ngay trong trận đầu đánh quân Mỹ trên chiến trường Tây Nguyên. Xét về nghệ thuật quân sự, chiến dịch Plây Me diễn ra rất quyết liệt giữa Quân Giải phóng và địch, trong đó với QGP nổi lên là xác định đúng đối tượng tác chiến và vận dụng cách đánh sáng tạo, linh hoạt, đạt hiệu quả chiến đấu cao.
Quá trình chiến dịch đã diễn ra theo đúng phương châm tác chiến QGP đề ra. Trong đợt 1, khi QGP tiến công tiêu diệt quân VNCH, chiếm đồn Chư Ho, bao vây đồn Plây Me, sau đó đánh bại Chiến đoàn thiết giáp 3 của VNCH đến ứng cứu đã buộc Sư đoàn kỵ binh không vận 1 Mỹ phải đưa hai tiểu đoàn của Lữ đoàn 1 vào tham chiến. Tiếp đó, Mỹ đưa Lữ đoàn kỵ binh không vận 3 vào nhằm ứng cứu quân VNCH và tìm diệt QGP. Sang đợt 2, Bộ tư lệnh chiến dịch chọn thung lũng Ia Đrăng dưới chân núi Chư Pông (cách Plây Me 25km về phía tây) làm nơi quyết chiến, tập trung lực lượng đánh trận then chốt quyết định tiêu diệt quân Mỹ. Các trận đánh kể trên thể hiện thành công của ta về xác định đúng đối tượng tác chiến, đánh quân ngụy trước, diệt Mỹ sau, kéo quân Mỹ vào sâu trong vùng rừng núi hiểm trở, xa căn cứ để nhanh chóng tiêu diệt chúng; đồng thời thể hiện mưu hay của QGP là lừa địch và kế giỏi của QGP là dụ quân Mỹ vào đúng điểm quyết chiến của QGP chọn để giành thắng lợi. Đây chính là những nét đặc sắc đánh dấu bước phát triển mới về nghệ thuật chiến dịch của ta trong cuộc đọ sức đầu tiên với quân Mỹ cấp chiến dịch trên chiến trường miền Nam.
 
Thành công nổi bật của QGP trong quá trình tác chiến chiến dịch là vận dụng cách đánh sáng tạo, linh hoạt, đạt hiệu quả chiến đấu cao. Lúc đầu, QGP vận dụng cách đánh “vây điểm, diệt viện”, buộc địch phải đưa quân đến ứng cứu, trong đó có quân kỵ binh bay Mỹ tham chiến. Đến khi QGP tiến công mạnh và vây ép chặt, khiến quân Mỹ phải sử dụng trực thăng đổ quân, tập kích hậu phương chiến dịch và một số khu vực trận địa của ta, nhưng chúng đều bị ta phát hiện, đánh thiệt hại. Ha-ri Kin-na, Tư lệnh Sư đoàn kỵ binh bay số 1 Mỹ phải điều động Lữ đoàn kỵ binh không vận 3 vào thay Lữ đoàn kỵ binh không vận 1 tham chiến. Với chiến thuật “cóc nhảy”, quân Mỹ đưa Lữ đoàn kỵ binh không vận 3 đổ bộ xuống khu vực Chư Pông, hòng bất ngờ đánh vào phía sau đội hình chủ lực của QGP.
 
Trước tình hình đó, Bộ tư lệnh chiến dịch cảu QGP điều chỉnh lực lượng, dựa vào trận địa chuẩn bị sẵn, đánh chặn quyết liệt, tiêu diệt hai đại đội quân Mỹ, dồn số còn lại co cụm xuống thung lũng Ia Đrăng phòng ngự. Với tinh thần “bám thắt lưng Mỹ mà đánh”, QGP tập trung quân, tạo thế bao vây, ngăn chặn, cô lập quân Mỹ. Bằng cách đánh gần, bao vây chia cắt, sau hơn 8 giờ chiến đấu ác liệt dưới các loại hỏa lực bom và đạn pháo của Mỹ, QGP đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của trận đánh then chốt, giành thắng lợi hoàn toàn.
 
Chiến dịch tiến công Plây Me năm 1965 thắng lợi có ý nghĩa chiến lược to lớn, đánh dấu bước phát triển mới về nghệ thuật chiến dịch của QGP trong cuộc đấu trí, đấu lực đầu tiên với quân chiến đấu Mỹ trên chiến trường Tây Nguyên. Trên cơ sở xác định đúng đối tượng tác chiến là đánh quân VNCH trước, đánh quân Mỹ sau và thực hiện cách đánh vây điểm để diệt viện, dùng mưu kế lừa quân Mỹ, dụ chúng vào đúng địa bàn quyết chiến QGP chọn để hạn chế điểm mạnh của Mỹ về hỏa lực và sức cơ động, QGP đã phát huy được sở trường đánh gần đạt hiệu quả cao, nhanh chóng tiêu diệt từng bộ phận quân Mỹ. Thắng lợi của chiến dịch khẳng định QGP hoàn toàn có khả năng đánh tiêu diệt từng tiểu đoàn quân Mỹ, tiến tới đánh bại quân chiến đấu Mỹ trên chiến trường miền Nam.
 
==Đánh giá==
Bộ trưởng Quốc phòng Israel khi đó sang thăm Việt Nam Cộng hòa đã đóng vai một nhà báo chiến trường đến tham quan chiến dịch Pleime về nói như sau: “Quân đội Mỹ ở Việt Nam đã có đủ những vũ khí và phương tiện mà những người chỉ huy quân sự các nước khác chỉ thấy trong mơ. Thế mà, mỗi khi đối phương đã tiếp nhận giao chiến là trên 90% các trận đánh, quyền chủ động thuộc về họ...”.
 
== Chú thích ==