Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Giải bóng đá Ngoại hạng Anh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 27:
Các câu lạc bộ của [[Wales|Xứ Wales]] nếu tranh tài trong hệ thống các giải bóng đá Anh cũng có thể được tham gia giải đấu. Premier League tồn tại như một [[công ty]] với 20 đội bóng thành viên đóng vai trò như những [[cổ đông]]. Mùa giải thường được bắt đầu vào [[Tháng tám|tháng 8]] và kết thúc vào [[Tháng năm|tháng 5]]. Mỗi đội sẽ thi đấu 38 trận (đá với tất cả 19 đội khác trên cả sân nhà và sân khách).<ref>{{chú thích web|url=http://www.premierleague.com/content/premierleague/en-gb/fans/faqs/when-will-goal-line-technology-be-introduced.html|tiêu đề=When will goal-line technology be introduced?|work=Premier League.com|ngày truy cập=2018-11-01}}</ref> Phần lớn các trận đấu diễn ra vào chiều thứ 7 và [[Chủ nhật]]; một số trận diễn ra vào tối ngày giữa tuần. Giải thường được gọi là "''Premiership''" còn ở ngoài [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Vương quốc Anh]] thường được biết đến là ''English Premier League'' (''EPL'').
 
Giải đấu được thành lập vào ngày [[20 tháng 2]] năm [[1992]] với tên gọi ''FA Premier League'' sau quyết định của các câu lạc bộ tham dự [[Football League First Division]] tách khỏi [[English Football League|Football League]], một giải đấu khởi nguồn từ năm [[1888]], nhằm tận dụng lợi thế về các thỏa thuận bản quyền truyền hình.<ref>{{chú thích báo |url= http://observer.guardian.co.uk/osm/story/0,,626773,00.html |tiêu đề=United (versus Liverpool) Nations |newspaper=The Observer |ngày=6 tháng 1 năm 2002 |ngày truy cập=8 tháng 8 năm 2016}}</ref> Thỏa thuận trong nước trị giá 1&nbsp;tỉ bảng/năm được ký cho mùa 2013–14, với việc [[BSkyB]] và [[BT Group]] giành quyền phát sóng lần lượt 116 và 38 trận đấu.<ref>{{chú thích báo|first=Owen |last=Gibson |tiêu đề=Premier League lands £bn deal |url=http://www.guardian.co.uk/media/2012/jun/13/premier-league-tv-rights-3-billion-sky-bt/ |newspaper=The Guardian |ngày=13 tháng 6 năm 2012 |ngày truy cập=14 tháng 6 năm 2012 }}</ref> Giải đấu thu về 2,2&nbsp;tỉ euro/năm tiền bản quyền truyền hình trong nước và quốc tế.<ref name="international rights">{{chú thích web|url=http://www.bloomberg.com/news/2013-11-11/top-soccer-leagues-get-25-rise-in-tv-rights-sales-report-says.html|tiêu đề=Top Soccer Leagues Get 25% Rise in TV Rights Sales, Report Says|work=Bloomberg|ngày truy cập=4 tháng 8 năm 2014}}</ref> Tính đến [[Giải bóng đá Ngoại hạng Anh 2014-15|mùa 2014–15]], các câu lạc bộ được chia khoản lợi nhuận 1,6 tỉ bảng,<ref>{{chú thích web|url=http://www.premierleague.com/en-gb/news/news/2015-16/jun/020615-premier-league-payments-to-clubs-in-season-2014-15.html|tiêu đề=Premier League Payments to Clubs|publisher=Premier League|ngày truy cập=30 tháng 1 năm 2016}}</ref> và 2,4 tỉ bảng vào mùa[[Giải bóng đá Ngoại hạng Anh 2016-17|mùa 2016–17]].<ref name="Premier League">{{chú thích báo|tiêu đề=Premier League value of central payments to Clubs|url=https://www.premierleague.com/news/405400|publisher=Premier League|ngày=1 tháng 6 năm 2017|ngày truy cập=6 tháng 6 năm 2017}}</ref>
 
Hiện tại, Premier League là giải đấu bóng đá được xem nhiều nhất trên thế giới, phát sóng trên 212 vùng lãnh thổ tới 643&nbsp;triệu hộ gia đình và khoảng 4,7&nbsp;tỉ khán giả truyền hình.<ref name="Worldviews">{{chú thích báo |tiêu đề=History and time are key to power of football, says Premier League chief |url=http://www.thetimes.co.uk/tto/public/ceo-summit/article3804923.ece |publisher=The Times |ngày=3 tháng 7 năm 2013 |ngày truy cập=3 tháng 7 năm 2013}}</ref><ref>{{chú thích báo |tiêu đề=Playing the game: The soft power of sport |url=https://www.britishcouncil.org/organisation/policy-insight-research/insight/playing-game-soft-power-sport|ngày truy cập=9 tháng 10 năm 2018 |agency=British Council}}</ref> Trong [[Giải bóng đá Ngoại hạng Anh 2014–15|mùa giải 2014–15]], trung bình 1 trận đấu tại Premier League thu hút khoảng 36,000 khán giả tới sân,<ref>{{chú thích web|url=http://www.worldfootball.net/attendance/eng-premier-league-2014-2015/1/|tiêu đề=Premier League 2014/2015 » Attendance » Home matches|work=worldfootball.net|ngày truy cập=30 tháng 1 năm 2016}}</ref> cao thứ 2 trong các giải bóng đá chuyên nghiệp sau [[Bundesliga]] với 43,500 khán giả.<ref>{{chú thích web|url=http://www.espnfc.com/german-bundesliga/10/statistics/performance?season=2014|tiêu đề=German Bundesliga Scoring Stats - 2018-19|work=Espnfc.com|ngày truy cập=2018-11-01}}</ref> Phần lớn các sân bóng đều được lấp đầy khán giả.<ref>{{chú thích web|url=http://www.skysports.com/football/news/11095/9915096/hold-hold-hold-hold|tiêu đề=Your ground's too big for you! Which stadiums were closest to capacity in England last season?|author=Henry Chard|work=Sky Sports|ngày truy cập=30 tháng 1 năm 2016}}</ref> Premier League xếp thứ 2 trong [[Hệ số UEFA]] dành cho các giải đấu dựa theo thành tích của các câu lạc bộ tại các giải đấu châu Âu trong 5 mùa giải, tính đến năm [[2018]].<ref>{{chú thích web|url=http://www.uefa.com/memberassociations/news/newsid=2344621.html|tiêu đề=Member associations - News – UEFA.com|first=|last=uefa.com|ngày=31 tháng 7 năm 2018|publisher=}}</ref>
 
Đã có tất cả [[Danh sách các câu lạc bộ Giải bóng đá Ngoại hạng Anh|47 câu lạc bộ của Anh và 2 câu lạc bộ của xứ Wales tham dự]] kể từ mùa giải đầu tiên của Premier League năm [[1992]], nhưng mới chỉ có 6 trong số đó giành được chức vô địch: [[Manchester United F.C.|Manchester United]] (13), [[Chelsea F.C.|Chelsea]] (5), [[Manchester City F.C.|Manchester City]] (4), [[Arsenal F.C.|Arsenal]] (3) , [[Blackburn Rovers F.C.|Blackburn Rovers]] và [[Leicester City F.C.|Leicester City]] (1). Đương kim vô địch là [[Manchester City F.C.|Manchester City]], đội giành chức vô địch [[Giải bóng đá Ngoại hạng Anh 2017-18|mùa 2017–18]] với kỷ lục vô địch với 100 điểm, kỷ lục thắng 32 trận trong 1 mùa, kỷ lục về số bàn thắng 106 bàn. 12 tháng sau đó, [[Manchester City F.C.|Manchester City]] đã bảo vệ chức vô địch khi giành được 98 điểm, hơn [[Liverpool F.C.|Liverpool]] đúng 1 điểm.
Dòng 35:
== Lịch sử hình thành ==
=== Bối cảnh ===
Sau thành công tại [[châu Âu]] những năm 1970 và đầu 1980, đến cuối những năm 80 đánh dấu những bước lùi của bóng đá Anh. Các [[sân vận động]] xuống cấp, những cổ động viên phải sử dụng cơ sở vật chất nghèo nàn, [[hooligan]] đầy rẫy, và các câu lạc bộ Anh bị cấm thi đấu tại các giải châu Âu trong 5 năm sau [[thảm họa Heysel]] năm [[1985]].<ref>{{chú thích báo|url=http://news.bbc.co.uk/onthisday/hi/dates/stories/may/31/newsid_2481000/2481723.stm |title=1985: English teams banned after Heysel |work=BBC Archive |publisher=BBC |accessdate=8 tháng 8 năm 2016 |date=31 tháng 5 năm 1985}}</ref> [[Football League First Division]], giải đấu cao nhất của nước Anh ra đời năm [[1888]], xếp sau [[Serie A]] của [[Ý|Italia]] và [[La Liga]] của [[Tây Ban Nha]] về số lượng khán giả cũng như [[doanh thu]], một vài cầu thủ Anh nổi bật chuyển ra nước ngoài thi đấu.<ref name="premsitehistory">{{cite web |url=http://www.premierleague.com/page/History/0,,12306,00.html |title=A History of The Premier League |publisher=Premier League |accessdate=22 November 2007}}</ref>
 
Đầu [[thập niên 1990]], xu hướng dần đảo ngược: tại [[Giải bóng đá vô địch thế giới 1990|World Cup 1990]], {{Nft|Anh}} lọt tới vòng bán kết; [[UEFA]], cơ quan [[quản lý]] bóng đá châu Âu, dỡ bỏ lệnh cấm các câu lạc bộ Anh thi đấu tại các giải đấu châu Âu cũng trong năm đó, kết quả là [[Manchester United F.C.|Manchester United]] giành chức vô địch [[UEFA Cup Winners' Cup]] một năm sau đó, cùng với đó Lord Justice Taylor đưa ra bản báo cáo vào [[Tháng một|tháng 1]] năm đó sau [[thảm họa Hillsborough]], đề nghị các sân vận động phải nâng cấp trở thành những sân vận động gồm tất cả các khán đài ngồi.<ref>{{chú thích web |url=http://www.footballnetwork.org/dev/communityfootball/violence_taylor_report.asp |title=The Taylor Report |publisher=Football Network |accessdate=22 tháng 11 năm 2017}}</ref>
 
Vào [[thập niên 1980]], những câu lạc bộ lớn ở Anh bắt đầu chuyển dịch thành những dự án kinh doanh khi áp dụng các cơ chế thị trường vào quản lý câu lạc bộ để tối đa hóa lợi nhuận. [[Martin Edwards]] của [[Manchester United F.C.|Manchester United]], [[Irving Scholar]] của [[Tottenham Hotspur F.C.|Tottenham Hotspur]] và [[David Dein]] của [[Arsenal F.C.|Arsenal]] là những người dẫn đầu trong sự chuyển dịch này. Điều này đem lại cho các câu lạc bộ lớn nhiều quyền lực hơn. Bằng cách đe dọa sẽ ly khai, các câu lạc bộ ở Division One đã cố gắng làm tăng quyền chi phối biểu quyết của họ. Họ còn chiếm 50% [[cổ phần]] từ thu nhập truyền hình và tài trợ vào năm [[1986]].<ref>{{chú thích sách |url=https://books.google.com/books?id=YZ6MAQAAQBAJ&pg=PA342&lpg=PA342#v=onepage&q&f=false |title=The Association Game: A History of British Football |first=Matthew |last=Taylor |page=342 |publisher=Routledge |date=18 tháng 10 năm 2013 |isbn=9781317870081}}</ref> Doanh thu về truyền hình cũng dần trở nên quan trọng hơn: Football League nhận được 6,3&nbsp;triệu [[bảng Anh|bảng]] trong một thỏa thuận hai năm năm [[1986]], nhưng khi gia hạn hợp đồng mới năm [[1988]], giá trị đã tăng lên 44&nbsp;triệu bảng cho bốn năm, với các đội bóng lớn chiếm 75% số tiền.<ref name="taylor">{{chú thích sách |url=https://books.google.com/books?id=YZ6MAQAAQBAJ&pg=PA343&lpg=PA343#v=onepage&q&f=false |title=The Association Game: A History of British Football |first=Matthew |last=Taylor |page=343 |publisher=Routledge |date=18 tháng 10 năm 2013 |isbn=9781317870081}}</ref><ref name="leicester_tv">{{chú thích web |url=http://www.le.ac.uk/sociology/css/resources/factsheets/fs8.html |archiveurl=https://web.archive.org/web/20110606080220/http://www.le.ac.uk/sociology/css/resources/factsheets/fs8.html |archivedate=6 tháng 6 năm 2011 |title=Fact Sheet 8: British Football on Television |publisher=Centre for the Sociology of Sport, University of Leicester |last=Crawford |first=Gerry |accessdate=10 tháng 8 năm 2016}}</ref> Theo Scholar, người trực tiếp tham gia những cuộc đàm phán về thỏa thuận truyền hình, các đội bóng ở giải Hạng Nhất chỉ nhận được khoảng 25.000 bảng từ tiền bản quyền truyền hình, nhưng con số đó đã tăng lên vào khoảng 50.000 bảng trong đàm phán năm 1986 và 600.000 bảng vào năm 1988.<ref>{{chú thích sách|url=https://books.google.com/books?id=sO1zDQAAQBAJ |title=White Hart Lane: The Spurs Glory Years 1899–2017 |first=Martin |last=Lipton |chapter=Chapter 15: Mr Chairman |publisher=Weidenfeld & Nicolson |date=5 tháng 10 năm 2017 |isbn=9781409169284}}</ref> Những cuộc đàm phán năm 1988 là những dấu hiệu đầu tiên của một giải đấu ly khai: mười10 câu lạc bộ dọa rời khỏi và thành lập một "siêu giải đấu", nhưng cuối cùng đã được thuyết phục để ở lại, khi các đội bóng lớn chiếm phần lớn nhất của thỏa thuận.<ref name="taylor"/><ref>{{chú thích báo|title=Super Ten Losing Ground |url=https://news.google.com/newspapers?id=ZmFPAAAAIBAJ&sjid=I5ADAAAAIBAJ&pg=7001%2C3212387 |date=14 tháng 7 năm 1988 |newspaper=New Straits Times |accessdate=9 tháng 9 năm 2013}}</ref><ref name="FLhistory">{{chú thích web |url=http://www.football-league.premiumtv.co.uk/page/History/0,,10794,00.html |title=The History of the Football League |publisher=Football League |accessdate=12 tháng 9 năm 2014 |archivedate=11 tháng 4 năm 2008 |archiveurl=https://web.archive.org/web/20080411034859/http://www.football-league.premiumtv.co.uk/page/History/0%2C%2C10794%2C00.html |deadurl=yes}}</ref> Khi mà các sân vận động được tu bổ, lượng khán giả và doanh thu tăng lên, các câu lạc bộ hàng đầu lại một lần nữa cân nhắc việc rời khỏi Football League để tận dụng dòng tiền chảy vào các môn thể thao.<ref name="FLhistory"/>
 
=== Thành lập ===
{{Xem thêm|Thành lập Giải bóng đá Ngoại hạng Anh}}
 
Năm [[1990]], giám đốc điều hành của London Weekend Television (LWT), Greg Dyke, đã gặp mặt đại diện của những đội bóng "big five" ở Anh ([[Manchester United F.C.|Manchester United]], [[Liverpool F.C.|Liverpool]], [[Tottenham Hotspur F.C.|Tottenham]], [[Everton F.C.|Everton]][[Arsenal F.C.|Arsenal]]) trong một bữa tối.<ref name="Conn">{{chú thích báo|url=https://www.theguardian.com/football/david-conn-inside-sport-blog/2013/sep/04/greg-dyke-premier-league-history |title=Greg Dyke seems to forget his role in the Premier League's formation |first=David |last=Conn |date=4 tháng 9 năm 2013 |work=The Guardian |accessdate=18 tháng 1 năm 2018}}</ref> Mục đích của cuộc gặp là sự mở đường cho cuộc ly khai khỏi [[Football League]].<ref>{{chú thích báo|url=http://news.bbc.co.uk/sport1/hi/tv_and_radio/1180279.stm |title=The Men who Changed Football |date= 20 tháng 2 năm 2001 |work=BBC |accessdate=20 tháng 9 năm 2018}}</ref> Dyke tin rằng việc này sẽ đem lại lợi ích cho LWT nếu chỉ có những đội bóng lớn hơn trong nước xuất hiện trên truyền hình quốc gia, đồng thời muốn xác minh liệu các câu lạc bộ có quan tâm đến cổ phần tiền bản quyền truyền hình lớn hơn hay không.<ref name="Rodrigues">{{chú thích báo|url=https://www.theguardian.com/football/from-the-archive-blog/2012/feb/02/20-years-premier-league-football-1992 |title=Premier League football at 20: 1992, the start of a whole new ball game |first=Jason |last=Rodrigues |date=2 February 2012 |work=The Guardian |accessdate=18 tháng 1 năm 2018}}</ref> Tuy nhiên giải đấu sẽ không có uy tín nếu như không có sự ủng hộ của [[Liên đoàn bóng đá Anh]] (FA), vì thế [[David Dein]] của [[Arsenal F.C.|Arsenal]] đã đàm phán với FA để tiếp nhận ý tưởng. FA vốn đang không có mối quan hệ tốt với Football League vào thời điểm đó nên coi đó như là một cách làm suy yếu đi vị thế của Football League.<ref>{{chú thích báo |url=https://www.theguardian.com/football/2017/jul/23/deceit-determination-murdochs-millions-how-premier-league-was-born |title=Deceit, determination and Murdoch's millions: how Premier League was born |first=Paul |last=MacInnes |date=23 tháng 7 năm 2017 |work=The Guardian |accessdate=18 tháng 1 năm 2018}}</ref>
 
Kết thúc mùa bóng 1991, một lời đề nghị đã được đưa ra về việc tạo ra giải đấu mới sẽ mang về nhiều tiền hơn. Bản hiệp định các thành viên sáng lập do các câu lạc bộ của giải đấu cấp cao nhất lúc đó ký ngày [[17 tháng 7]] năm [[1991]], nhằm lập ra các nguyên tắc cơ bản về việc thành lập FA Premier League.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.hmcourts-service.gov.uk/judgmentsfiles/j9/pljmtint.htm |title=In the matter of an agreement between the Football Association Premier League Limited and the Football Association Limited and the Football League Limited and their respective member clubs |work=HM Courts Service |publisher=HM Government |year=2006 |accessdate=8 tháng 8 năm 2016 |archiveurl=https://web.archive.org/web/20070927222536/http://www.hmcourts-service.gov.uk/judgmentsfiles/j9/pljmtint.htm |archivedate=27 tháng 9 năm 2007 |deadurl=yes}}</ref>> Giải đấu cấp cao nhất mới được thành lập này sẽ độc lập [[tài chính]] với [[Hiệp hội bóng đá Anh]] và Football League, giúp cho FA Premier League tự chủ về việc thỏa thuận các hợp đồng tài trợ và bản quyền truyền hình. Lý lẽ được đưa ra khi đó là việc tăng thu nhập sẽ giúp các câu lạc bộ Anh tăng khả năng cạnh tranh với các đội bóng khác ở [[châu Âu]].<ref name="premsitehistory"/> Mặc dù Dyke đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập giải bóng đá Ngoại hạng Anh, Dyke và ITV lại thất bại trong cuộc đấu thầu bản quyền phát sóng khi [[Sky UK|BSkyB]] là đơn vị giành gói thầu với trị giá 304 triệu bảng trong 5 năm, còn [[BBC]] nhận gói phát sóng các chương trình tổng hợp vòng đấu trên ''[[Match of the Day]]''.<ref name="Conn"/><ref name="Rodrigues"/>
 
Năm [[1992]], các câu lạc bộ Hạng Nhất đồng loạt từ bỏ Football League và tới ngày [[27 tháng 5]] năm [[1992]], FA Premier League thành lập 1 [[công ty trách nhiệm hữu hạn]] làm việc tại [[văn phòng]] của Hiệp hội bóng đá Anh sau đó đặt trụ sở chính ở [[Lancaster Gate]].<ref name="premsitehistory"/> Điều đó có nghĩa Football League chấm dứt 104 năm hoạt động với bốn giải đấu; Premier League sẽ hoạt động như một hạng đấu riêng còn Football League chỉ còn ba hạng. Không có sự thay đổi nào về thể thức; vẫn giữ nguyên số đội ở hạng đấu cao nhất, việc lên xuống hạng giữa Premier League và Hạng Nhất mới vẫn giữ nguyên như giữa Hạng Nhất và Nhì cũ với 3 đội lên hạng và 3 đội xuống hạng.<ref name="FLhistory"/>
 
Mùa giải đầu tiên diễn ra vào [[Giải bóng đá Ngoại hạng Anh 1992–93|1992–93]] và có 22 câu lạc bộ tham dự. [[Bàn thắng (bóng đá)|Bàn thắng]] đầu tiên tại Premier League được ghi bởi [[Brian Deane]] của [[Sheffield United F.C.|Sheffield United]] trong trận thắng 2–1 trước [[Manchester United F.C.|Manchester United]].<ref>{{cite news |url=http://www.independent.co.uk/sport/football--the-premier-kickoff-fergusons-false-start-1540915.html |title=The Premier Kick-Off: Ferguson's false start |first=Phil |last=Shaw |newspaper=The Independent |date=17 August 1992 |accessdate=24 August 2010}}</ref> 22 thành viên ban đầu của Premier League mới là [[Arsenal F.C.|Arsenal]], [[Aston Villa F.C.|Aston Villa]], [[Blackburn Rovers F.C.|Blackburn Rovers]], [[Chelsea F.C.|Chelsea]], [[Coventry City F.C.|Coventry City]], [[Crystal Palace F.C.|Crystal Palace]], [[Everton F.C.|Everton]], [[Ipswich Town F.C.|Ipswich Town]], [[Leeds United A.F.C.|Leeds United]], [[Liverpool F.C.|Liverpool]], [[Manchester City F.C.|Manchester City]], [[Manchester United F.C.|Manchester United]], [[Middlesbrough F.C.|Middlesbrough]], [[Norwich City F.C.|Norwich City]], [[Nottingham Forest F.C.|Nottingham Forest]], [[Oldham Athletic A.F.C.|Oldham Athletic]], [[Queens Park Rangers F.C.|Queens Park Rangers]], [[Sheffield United F.C.|Sheffield United]], [[Sheffield Wednesday F.C.|Sheffield Wednesday]], [[Southampton F.C.|Southampton]], [[Tottenham Hotspur F.C.|Tottenham Hotspur]], và [[Wimbledon F.C.|Wimbledon]].<ref>{{cite web |url=http://www.soccerbase.com/league2.sd?competitionid=1&seasonid=122 |title=Final 1992/1993 English Premier Table |work=Soccerbase |publisher=Racing Post |accessdate=14 September 2010}}</ref> [[Luton Town F.C.|Luton Town]], [[Notts County F.C.|Notts County]] và [[West Ham United F.C.|West Ham United]] là 3 đội bị xuống hạng ở giải hạng nhất cũ mùa 1991–92, nên không được tham dự mùa giải đầu tiên của Premier League.<ref>{{chú thích sách|last=Lovejoy |first=Joe |title=Glory, Goals and Greed: Twenty Years of the Premier League |publisher=Random House |year=2011 |chapter=3. The Big Kick-Off |url=https://books.google.com/books?id=HUFeEjq4hZkC&pg=PT18 |isbn=978-1-78057-144-7}}</ref>
Dòng 130:
|- style="border-top:3px solid black" class="sortbottom"
|}
Chỉ với bốn4 vị trí đầu tiên của giải đấu có được suất dự [[UEFA Champions League]] mà hiện nay có sự cạnh tranh lớn hơn bốn4 suất đó, mặc dù chỉ mới mở ra đến sáu6 đội bóng. Nếu các đội bằng điểm và hiệu số bàn thắng, một trận đấu phân định suất dự cúp Châu Âu sẽ được chơi ở sân trung lập. Trong năm mùa giải tiếp theo sau [[Giải bóng đá Ngoại hạng Anh 2011-12|mùa bóng 2011–12]], [[Manchester United F.C.|Manchester United]][[Liverpool F.C.|Liverpool]] đều đứng ngoài top bốn ba3 lần trong khi [[Chelsea F.C.|Chelsea]] kết thúc ở vị trí 10 trong mùa giải 2015–16. Arsenal khép lại giải đấu ở vị trí thứ 5 vào mùa bóng 2016–17, kết thúc kỷ lục của họ với 20 lần liên tiếp kết thúc trong top bốn.<ref>{{cite news |title=Arsenal secure top-four finish for 20th straight season to reach Champions League after Manchester United defeat |url=https://www.independent.co.uk/sport/football/premier-league/arsenal-secure-top-four-finish-for-20th-straight-season-to-qualify-for-champions-league-after-a7024176.html |first=Jack |last=De Menezes |publisher=Independent |date=11 May 2016 |accessdate=1 June 2016}}</ref>
 
[[Giải bóng đá Ngoại hạng Anh 2015-16|Mùa bóng 2015–16]], top bốn đã bị phá vỡ bởi một đội bóng nằm ngoài nhóm Big Six lần đầu tiên kể từ sau Everton năm 2005. [[Leicester City F.C.|Leicester City]] viết thành công câu chuyện cổ tích khi giành được chức vô địch Premier League và được tham dự vòng bảng Champions League.<ref>{{cite web |title=Leicester City win Premier League title after Tottenham draw at Chelsea |url=https://www.bbc.co.uk/sport/football/35988673 |work=BBC Sport |date=2 May 2016}}</ref>
Dòng 165:
Đội xếp thứ 5 Premier League sẽ trực tiếp tham dự [[UEFA Europa League]], đội thứ 6 và thứ 7 được tham dự hay không, phụ thuộc vào đội vô địch 2 cúp quốc nội là [[FA Cup]] và [[Football League Cup|League Cup]]. Hai suất Europa League sẽ được dành cho đội vô địch của giải đấu đó; nếu đội vô địch FA Cup hoặc League Cup đã giành quyền tham dự Champions League, thì suất đó sẽ dành cho đội có vị trí kết thúc ở vị trí cao hơn tại Premier League.<ref>{{cite web |title=Regulations of the UEFA Europa League |url=http://www.uefa.com/MultimediaFiles/Download/Regulations/competitions/Regulations/01/62/69/60/1626960_DOWNLOAD.pdf |format=PDF |publisher=UEFA |accessdate=28 February 2012}}</ref><ref>{{cite web |url=http://www.premierleague.com/en-gb/fans/faqs/who-qualifies-to-play-in-europe/ |publisher=Premier League |title=Who qualifies to play in Europe? |accessdate=7 April 2012}}</ref> Một suất tham dự UEFA Europa League khác cũng có thể giành được nhờ giải Fair Play. Nếu Premier League là một trong ba giải đứng bảng xếp hạng Fair Play của châu Âu, đội xếp cao nhất trong bảng xếp hạng Fair Play Premier League nếu chưa giành quyền tham dự cúp châu Âu sẽ được tham dự từ vòng loại thứ nhất UEFA Europa League.<ref>{{cite news |url=http://en.archive.uefa.com/uefa/keytopics/kind=8/newsid=795065.html |title=Norway lead Respect Fair Play league |date=26 January 2009 |accessdate=29 August 2010 |publisher=UEFA}}</ref>
 
Một ngoại lệ xảy ra năm [[2005]], khi [[Liverpool F.C.|Liverpool]] vô địch Champions League năm trước đó, nhưng họ không giành được quyền tham dự Champions League tại Premier League mùa giải đó. [[UEFA]] dành cho [[Liverpool F.C.|Liverpool]] quyền đặc biệt tham dự Champions League, giúp [[Anh]] có 5 đội tham dự.<ref>{{cite news |url=http://news.bbc.co.uk/sport1/hi/football/teams/l/liverpool/4613695.stm |title=Liverpool get in Champions League |work=BBC Sport |publisher=British Broadcasting Corporation |date=10 June 2005 |accessdate=11 December 2007}}</ref> UEFA sau đó đưa ra quy định đội đương kim vô địch mặc nhiên được tham dự vào mùa sau bất chấp kết quả của họ tại giải quốc nội. Tuy nhiên, đối với những quốc gia có 4 suất tham dự Champions League, nếu nhà vô địch Champions League kết thúc ở vị trí ngoài đội đứng đầu ở giải quốc nội, đội đó sẽ lấy suất tham dự của đội xếp thứ 4. Tại thời điểm đó, không có một liên đoàn nào có hơn 4 đại diện tham dự Champions League.<ref>{{cite news |url=http://www.uefa.com/uefa/keytopics/kind=64/newsid=698237.html?cid=rssfeed&att=index |title=EXCO approves new coefficient system |publisher=UEFA |date=20 May 2008 |accessdate=12 September 2010 |archivedate=21 May 2008 |archiveurl=https://web.archive.org/web/20080521053931/http://www.uefa.com/uefa/keytopics/kind=64/newsid=698237.html?cid=rssfeed&att=index |deadurl=yes}}</ref> Điều này diễn ra vào năm [[2012]], khi [[Chelsea F.C.|Chelsea]] – đội vô địch Champions League năm trước đó nhưng xếp thứ 6 tại giải trong nước – giành suất tham dự Champions League của Tottenham Hotspur, đội phải tham dự Europa League.<ref>{{cite news |url=http://edition.cnn.com/2012/05/20/sport/football/football-chelsea-champions-league/index.html |title=Jubilant Chelsea parade Champions League trophy |publisher=CNN International |date=21 May 2012 |accessdate=11 January 2013}}</ref>
 
Bắt đầu từ [[Giải bóng đá Ngoại hạng Anh 2015-16|mùa 2015–16]], đội vô địch [[UEFA Europa League|Europa League]] sẽ được tham dự [[UEFA Champions League|Champions League]] mùa giải tiếp theo, suất tối đa tham dự Champions League cho mỗi quốc gia được nâng lên 5. Một quốc gia có 4 suất Champions League, như [[Anh]], sẽ chỉ kiếm được suất thứ 5 nếu một câu lạc bộ không giành được quyền tham dự Champions League thông qua giải quốc nội mà vô địch Champions League hoặc Europa League.<ref>{{cite press release|url=http://www.uefa.com/uefaeuropaleague/news/newsid=2215121.html |title=How the Europa League winners will enter the Champions League |publisher=UEFA |date=6 May 2016 |accessdate=22 May 2016}}</ref>
 
Năm [[2007]], Premier League trở thành giải đấu đứng đầu bảng xếp hạng Các giải đấu châu Âu dựa theo thành tích của các câu lạc bộ Anh tại cúp châu Âu trong giai đoạn 5 năm. Điều này đã phá vỡ sự thống trị 8 năm của giải vô địch quốc gia Tây Ban Nha, [[La Liga]].<ref>{{cite news |url=http://www.xs4all.nl/~kassiesa/bert/uefa/data/index.html#part3 |title=UEFA European Cup Coefficients Database |last=Kassies |first=Bert |publisher=Bert Kassies |year=2010 |accessdate=9 September 2010 }}</ref>
Dòng 941:
Chiếc cúp Premier League hiện tại được tạo ra bởi Royal Jewellers [[Garrard & Co|Asprey of London]]. Chiếc cúp bao gồm thân cúp với chiếc vương miện bằng vàng và chiếc đế bằng [[malachit]]. Chiếc đế nặng {{convert|33|lb|kg}} còn thân cúp nặng {{convert|22|lb|kg}}.<ref>{{Cite news |title=Size and weight of the Barclays Premier League trophy |url=http://premierleague.custhelp.com/app/answers/detail/a_id/28/~/size-and-weight-of-the-barclays-premier-league-trophy |work=premierleague.com |publisher=Premier League |date=12 March 2010 |accessdate=16 May 2012 }}</ref> Cả thân và đế cao {{convert|76|cm|in|abbr=on}}, rộng {{convert|43|cm|in|abbr=on}} và sâu {{convert|25|cm|in|abbr=on}}.<ref name="Trophy">{{cite web |url=http://premierskills.britishcouncil.org/learn-english/premier-league-trophy |title=The Premier League Trophy |accessdate=22 January 2013 |work=Premier Skills |publisher=British Council }}</ref>
 
Thân chính được làm từ [[bạc]] đặc thật và bạc mạ vàng, trong khi đó đế được làm từ [[malachit]], một loại [[Ngọc|đá quý]]. Đế có một dải bạc xung quanh chu vi của nó, nơi ghi tên các nhà vô địch giải đấu. Malachit màu xanh cũng là tượng trưng cho màu xanh của cỏ trên sân.<ref name="Trophy"/> Chiếc cúp được thiết kế dựa trên [[huy hiệu]] của [[Huy hiệu Hoàng gia Anh|Tam Sư]] kết hợp với bóng đá Anh. Hai con sư tử được đặt ở hai bên chiếc cúp phía trên tay nắm– con thứ ba được biểu tượng chính là người đội trưởng của đội vô địch người nâng cao chiếc cúp, và khi ấy chiếc vương miện vàng sẽ ở trên đầu của anh ta.<ref>{{cite web |url=http://www.sponsorship.barclays.co.uk/football/trophy-tour-fact.html |title=What makes the Barclays Premier League Trophy so special? |publisher=Barclays |accessdate=13 September 2010}}</ref> Các ruy băng treo lên tay nắm được thể hiện bằng màu của đội vô địch giải đấu năm đó.
 
Năm [[2004]], một phiên bản vàng đặc biệt được trao cho [[Arsenal F.C.|Arsenal]] khi họ giành chức vô địch mà không để thua một trận đấu nào.<ref>{{cite web |url=http://www.gettyimages.com/detail/51204716/Getty-Images-Sport |title=Arsenal v Middlesbrough |date=22 August 2004 |publisher=Getty Images |accessdate=7 September 2010}}</ref>
 
===Các giải thưởng cho cầu thủ và huấn luyện viên===