Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Huân chương Chiến sĩ vẻ vang”

huân chương Việt Nam
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Trang mới: Huân chương Chiến sĩ vẻ vang là một loại huân chương của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Nhà nước Cộng hòa...
(Không có sự khác biệt)

Phiên bản lúc 11:11, ngày 20 tháng 4 năm 2007

Huân chương Chiến sĩ vẻ vang là một loại huân chương của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam), đặt ra lần đầu theo Pháp lệnh ngày 12 tháng 9 năm 1961 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và ban hành theo Sắc lệnh số 52/CT ngày 16 tháng 9 năm 1961 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Theo Luật Thi đua - Khen thưởng (ban hành ngày 26-11-2003) thì Huân chương Chiến sĩ vẻ vang được đổi thành Huy chương Chiến sĩ vẻ vang.

Huân chương Chiến sĩ vẻ vang để tặng hoặc truy tặng cho quân nhân có công lao trong việc xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam từ sau Kháng chiến chống Pháp (20.7.1954)

Huân chương Chiến sĩ vẻ vang có 3 hạng được phân biệt bằng số vạch màu vàng trên dải và cuống huân chương: hạng nhất có 3 vạch, hạng nhì có 2 vạch, hạng ba có 1 vạch. Thẩm quyền tặng, truy tặng Huân chương Chiến sĩ vẻ vang do Chủ tịch nước quyết định.

Đối tượng và tiêu chuẩn khen thưởng

Tùy theo thời gian phục vụ tại ngũ sau ngày 20 tháng 7 năm 1954 mà quân nhân có đủ tiêu chuẩn quy định được tặng hoặc truy tặng các hạng Huân chương Chiến sĩ vẻ vang như sau:

  • Phục vụ tại ngũ liên tục 15 năm: được thưởng Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng nhất.
  • Phục vụ tại ngũ liên tục 10 năm: được thưởng Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng nhì.
  • Phục vụ tại ngũ liên tục 5 năm hoặc đã phục vụ tại ngũ liên tục từ 3 đến 4 năm mà được xếp loại giỏi về mọi mặt trong thời gian ấy: được thưởng Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng ba.
  • Những quân nhân đã hy sinh trong chiến đấu hoặc công tác được truy tặng tăng lên một hạng Huân chương Chiến sĩ vẻ vang so với tiêu chuẩn đạt được trước lúc hy sinh.