Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hồng quân”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động |
Không có tóm lược sửa đổi Thẻ: Soạn thảo trực quan Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động |
||
Dòng 266:
Trong một sự kiện đáng chú ý quân đội Liên Xô đã giết chết nhiều dân thường vào mùa hè năm 1980 <ref name=":5">{{Cite book|url=http://publishing.cdlib.org/ucpressebooks/view?docId=ft7b69p12h&chunk.id=d0e5195&toc.depth=1&toc.id=d0e5195&brand=ucpress|title=The Soviet Invasion and the Afghan Response, 1979–1982|last=Kakar|first=Mohammed|publisher=University of California Press|year=|isbn=9780520208933|location=|pages=|quote=Incidents of the mass killing of noncombatant civilians were observed in the summer of 1980...the Soviets felt it necessary to suppress defenseless civilians by killing them indiscriminately, by compelling them to flee abroad, and by destroying their crops and means of irrigation, the basis of their livelihood. The dropping of booby traps from the air, the planting of mines, and the use of chemical substances, though not on a wide scale, were also meant to serve the same purpose...they undertook military operations in an effort to ensure speedy submission: hence the wide use of aerial weapons, in particular helicopter gunships or the kind of inaccurate weapons that cannot discriminate between combatants and noncombatants.|via=}}</ref>. Để tách các lực lương kháng chiến Mujahideen ra khỏi người dân địa phương và loại bỏ sự ủng hộ của họ đối với quân kháng chiên Mujahideen, quân đội Liên Xô đã giêt hại và trục xuất các thường dân ra khỏi các khu vực dân cư và đã sử dụng chiến thuật "tiêu thổ" để ngăn chặn sự trở lại của họ. Họ đã sử dụng bẫy sập, mìn, và chất hoá học trong cả nước <ref name=":5" />. Họ đã thực hiện các hoạt động quân sự trong một nỗ lực để đảm bảo sự phục tùng nhanh chóng: việc sử dụng vũ khí hạng nặng, đặc biệt là pháo, máy bay trực thăng hoặc các loại vũ khí không chính xác vốn không thể phân biệt giữa lính đối phương và người thường dân.<ref name=":5" />. Người dân tại các tỉnh Nangarhar, Ghazni, Lagham, Kunar, Zabul, Qandahar, Badakhshan, Lowgar, Paktia và Paktika là nhưng người đã chịu đựng và chứng kiến các chương trình trục xuất dân cư quy mô lớn của các lực lượng Liên Xô.<ref name=":22" />
Các lực lượng Liên Xô đã bắt cóc phụ nữ Afghanistan bằng máy bay trực thăng khi đang bay trong nước để tìm kiếm quân kháng chiến Mudhideen. Vào tháng 11 năm 1980, một số sự kiện đã xảy ra ở nhiều nơi khác nhau của đất nước
Cũng có rất nhiều báo cáo về vũ khí hóa học đã được các lực lượng Liên Xô sử dụng ở Afghanistan, thường là trong các vụ tấn công vào các khu dân cư.<ref name="Report from Afghanistan">[http://www.paulbogdanor.com/left/afghan/report.pdf Report from Afghanistan] Claude Malhuret</ref><ref>{{Cite journal|jstor = 20671950|title = Chemical Warfare in Afghanistan: An Independent Assessment|last = Schwartzstein|first = Stuart j. d.|date = Winter 1982–83|journal = World Affairs|doi = |pmid = }}</ref><ref>[http://publishing.cdlib.org/ucpressebooks/view?docId=ft7b69p12h&chunk.id=ch013&toc.depth=1&toc.id=ch013&brand=eschol The Story of Genocide in Afghanistan] Hassan Kakar</ref>. Một báo cáo tình báo được giải mật của CIA vào năm 1982 rằng vào khoảng giữa những năm 1979 và 1982 đã có 43 vụ tấn công vũ khí hóa học riêng biệt mà đã gây ra hơn 3000 trường hợp tử vong cho dân thường<ref name=":0">{{Chú thích web|url = http://www.foia.cia.gov/sites/default/files/document_conversions/89801/DOC_0000284013.pdf|tiêu đề = Use of toxins and other lethal agents in Southeast Asia and Afghanistan|ngày tháng = 2 February 1982|ngày truy cập = 21 October 2014|website = |nhà xuất bản = CIA}}</ref>. Đến đầu những năm 1980, các báo cáo về cuộc tấn công bằng vũ khí hóa học đã được ghi nhận trong "tất cả các khu vực có hoạt động tập trung của quân Hồi giáo thánh chiến Mujahideen".
Dòng 274:
Dân số của thành phố lớn thứ hai tại Afghanistan là [[Kandahar]], đã giảm mạnh từ 200.000 dân trước khi cuộc chiến diễn ra xuống còn 25.000 dân, sau một chiến dịch ném bom rải thảm và san bằng kéo dài hàng tháng bởi Hồng quân Liên Xô và những người lính cộng sản Afghanistan vào năm 1987 {{sfn|Kaplan|2008|p=188}}. Riêng [[mìn]] đã giết chết hơn 25.000 người Afghanistan trong cuộc chiến trong khi có tới 10-15 triệu quả mìn của Liên Xô và quân chính phủ vẫn còn sót lại rải rác ở khắp các vùng nông thôn<ref>{{cite news|title=Mines Put Afghans in Peril on Return|first=Robert|last=Pear|newspaper=[[New York Times]]|date=August 14, 1988|page=9|url=https://www.nytimes.com/1988/08/14/world/mines-put-afghans-in-peril-on-return.html}}</ref>. [[Ủy ban Chữ thập đỏ quốc tế]] ước tính vào năm 1994 rằng sẽ mất tới 4.300 năm để loại bỏ toàn bộ số mìn của Liên Xô tại Afghanistan <ref>{{cite news|url=http://www.accessmylibrary.com/article-1G1-21061568/reversing-gun-sights-transnational.html |work=International Organization |title=Reversing the gun sights: transnational civil society targets land mines |date=June 22, 1998 |deadurl=yes |archiveurl=https://web.archive.org/web/20130928001109/http://www.accessmylibrary.com/article-1G1-21061568/reversing-gun-sights-transnational.html |archivedate=September 28, 2013 }}</ref>.
Nhiều cựu binh sĩ Hồng quân sau cuộc chiến đã kể lại rằng: "''Tình trạng tham nhũng
Một cựu binh sĩ khác cũng thừa nhận: "''Chúng tôi đã gây chú ý bởi sự tàn ác của chúng tôi ở Afghanistan. Chúng tôi sẵn sàng giết hại những người nông dân vô tội. Nếu một người lính của chúng tôi bị giết hoặc bị thương, chúng tôi sẽ giết hết phụ nữ, trẻ em và cả người già để trả thù. Chúng tôi sẽ giết sạch tất cả, kể cả động vật''" <ref>A. Alexiev, ''Inside the Soviet Army—Afghanistan'', Report no. 3627 (The Rand Corporation, 1988), p. 58.</ref>.
Một số binh sĩ Liên Xô thậm chí còn so sánh tội ác của họ ở Afghanistan với tội ác của quân đội [[Đức Quốc xã]] trong [[Chiến tranh Thế giới II]]. Trong một cuộc phỏng vấn năm 1990, một người lính Hồng quân từng tham gia cuộc chiến nói với tờ [[Moscow News]] rằng: "''Chúng tôi
Một cựu binh lính Hồng quân khác cũng từng tham gia cuộc chiến đã thú nhận trên báo chí Liên Xô vào năm 1989: "''Có những điều khiến chúng tôi
p. 9.</ref>.
|