Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sự quân bình từ suy tưởng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
TrạngTrong [[triết học]], trạng thái '''cân bằng đa chiều''' là một tình trạng cân bằng hoặc tình trạng gắn kết giữa một [[tập hợp]] những niềm tin. Trạng thái này đạt được từ một quá trình cùng điều chỉnh thông qua thảo luận. Điều chỉnh này là điều chỉnh các nguyên tắc chung và các đánh giá riêng. Tuy không sử dụng thuật ngữ trên, nhưng triết gia Nelson Goodman là người đầu tiên giới thiệu phương pháp cân bằng đa chiều như một phương pháp chứng minh các nguyên tắc của logic quy nạp. Thuật ngữ “cân bằng đa chiều” đóng đinh với John Rawls và được nhắc đến nhiều lần trong quyển sách “Học thuyết về công lý” như một phương pháp dẫn tới nội dung các nguyên tắc của sự công bằng.
 
[[John Rawls]] lập luận rằng con người có một “ý thức về công lý”. Ý thức này là một nguồn gốc cho động cơ và cách đánh giá đạo đức. Theo Rawls, chúng ta bắt đầu với “những đánh giá được cân nhắc” bắt nguồn từ ý thức về công lý. Đó có thể là những đánh giá về các nguyên tắc đạo đức chung/tổng quát (ở bất kỳ cấp độ nào của tính tổng quát) hoặc những trường hợp đạo đức cụ thể. Nếu đánh giá của chúng ta còn có điểm mâu thuẫn, chúng ta sẽ điều chỉnh niềm tin của mình cho đến khi chúng đạt được “sự cân bằng”, tức là những niềm tin đó đạt được độ bền vững, không xung đột với nhau, và đưa ra được những hướng dẫn có tính khả thi và nhất quán. Rawls lập luận là một tập hợp các niềm tin đạo đức trong trạng thái cân bằng đa chiều lý tưởng miêu tả và là đại diện cho những nguyên tắc cơ bản của ý thức về công lý của con người.