Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hoàng quý phi”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 135:
Thời kì [[nhà Nguyễn]], ngay từ thời [[Minh Mạng]] đã đặt ra Hoàng quý phi, với danh nghĩa [''"Trợ giúp Hoàng hậu"''], như vậy thì danh vị Hoàng quý phi thời Minh Mạng chưa thực sự xem là danh vị dành cho Chính thất thay thế Hoàng hậu. Về sau, danh vị này mới dần được xem như vị trí [[vợ|Đích thê]].
 
Tuy đặt ra từ thời Minh Mạng, nhưng bản thân các Hoàng đế nhà Nguyễn rất ít khi phong Hoàng quý phi thật sự. Trong lịch sử [[Hậu cung nhà Nguyễn]], chỉ có ba người từng là Hoàng quý phi:
* [[Lệ Thiên Anh hoàng hậu]] Vũ thị, làm Hoàng quý phi tầm 20 năm của [[Tự Đức|Vua Đức Đế]], sau bị giáng làm [''"Trung phi"'']. Trước khi [[Tựvua Đức|Tự Đức Đế]] qua đời, di chiếu tấn tôn làm Hoàng hậu, để có thể danh chính ngôn thuận làm [[Hoàng thái hậu]].
* [[Nguyễn Thị Vân Anh]], Hoàng quý phi của [[Vua Thành Thái]]. Sau khi Thành Thái thoái vị, được tôn làm [''"Hoàng đích mẫu"''] dưới thời [[Duy Tân]].
* [[Phụ Thiên Thuần Hoàng hậu]], Hoàng quý phi của [[Vua Đồng Khánh]]. Được tôn làm [''"Hoàng thái hậu"''] dưới thời [[Khải Định]].
 
Địa vị Hoàng quý phi trong Nội đình thời Nguyễn rất cao, bắt đầu từ thời Tự Đức đã cho chế ra quy định vái lạy và hành lễ, Hoàng quý phi được nhận mọi hành lễ của phi tần từ vái đến lạy, địa vị gần như thay thế Hoàng hậu, chứ không bị hạn chế như thời nhà Thanh. Riêng trường hợp [[Trương Như Thị Tịnh]], bà được đồn là được Khải Định Đế giữ ngôi vị Hoàng quý phi, nhưng trong tư liệu thực lục và những chỉ dụ sắc phong không hề đề cập chuyện này, mà chỉ nhắc đến bà với tư cách là nguyên phối (vợ cả) của ông.
 
=== Nhà Triều Tiên ===