Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Huỳnh Đức”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
[[Tập tin:Bàn thờ Nguyễn Huỳnh Đức.jpg|nhỏ|phải|200px|Bàn thờ Nguyễn Huỳnh Đức tại khu đền mộ ở Tân An.]]
'''[[Nguyễn Huỳnh Đức]]''' ([[chữ Hán]]: ''阮黃德''; [[1748]] - [[1819]]) là danh tướng và là công thần khai quốc của [[nhà Nguyễn]]. Ông là một trong số các võ quan cao cấp đầu triều Nguyễn từng giữ chức Tổng trấn của cả Bắc Thành lẫn Gia Định Thành.
 
==Thân thế==
Ông nguyên tên là '''[[Huỳnh Tường Đức]]''' <ref>Nhờ lập được nhiều công lao nên được ban quốc tính họ Nguyễn, từ đó ông có họ kép là ''Nguyễn Huỳnh''. Đa phần các sách biên chép về ông đều ghi tên Huỳnh Tường Đức, chỉ riêng sách ''Lăng Nguyễn Huỳnh Đức'', không thấy ghi tên người soạn, do NXB Trẻ ấn hành năm 2007, cho rằng ông tên ''Huỳnh Công Đức''.</ref>, sinh trưởng tại giồng Cái Én, làng Trường Khánh, châu Định Viễn, [[Long Hồ (dinh)|dinh Long Hồ]] (nay thuộc ấp Dinh, xã Khánh Hậu, thành phố [[Tân An]], tỉnh [[Long An]]).
 
Vốn xuất thân trong một gia đình quan võ, ông nội là Huỳnh Châu, cha là Huỳnh Lương đều theo phò [[chúa Nguyễn]] và đều được phong chức Cai đội. Năm 1731, cha và ông nội theo Điều khiển [[Trương Phước Vĩnh]] tham gia trấn áp cuộc nổi loạn [[Sá Tốt]]. Sau khi cuộc nổi loạn được dẹp yên, vua Chân Lạp hoảng sợ và xin đem hai vùng đất là Peam Mesar ([[Mỹ Tho]]) và Longhôr ([[Vĩnh Long]]) dâng [[Nguyễn Phúc Chú|chúa Nguyễn]]. Để tiện việc coi giữ, chúa cho lập châu Định Viễn, dựng dinh Long Hồ, bổ nhiệm quan lại rồi đưa thêm dân Việt đến khai hoang lập nghiệp. Từ đó, gia đình ông ở lại khai khẩn và lập nghiệp tại vùng [[Vũng Gù]].
 
==Sự nghiệp==
Ngay từ lúc còn trẻ, ông đã có “dung mạo khôi ngô, khỏe mạnh hơn người, ai cũng coi ông là hổ tướng” <ref> Nguyễn Khắc Thuần, ''Việt sử giai thoại (tập 8)'', NXB Giáo dục, 1998, tr.21 </ref>. Năm [[1781]], ông gia nhập vào đội quân Đông Sơn của [[Đỗ Thanh Nhơn]]. Sau, mặc dù Thanh Nhơn bị [[Nguyễn Phúc Ánh]] giết chết, nhưng [[Nguyễn Huỳnh Đức]] vẫn được tin dùng.
 
Năm Nhâm Dần ([[1782]]), ông được phong chức Tiền quân. Từ đó về sau, cuộc đời ông gắn chặt với chúa Nguyễn. Có lần, Nguyễn Phúc Ánh bị quân [[Tây Sơn]] truy đuổi đến Định Tường thì bị sa lầy, chỉ mỗi một mình ông dám trở lại cứu chúa. Lúc ấy trời vừa chạng vạng tối, quân Tây Sơn sợ bị mai phục nên rút lui. Trong đêm đó, vì quá mỏi mệt, Nguyễn Phúc Ánh đã gối đầu lên đùi ông ngủ mê man...Cảm động, Nguyễn Phúc Ánh ban cho ông "quốc tính" và xem ông như người trong hoàng tộc.<ref> Theo ''Đại Nam chính biên liệt truyện'' (sơ tập, quyển 7) và ''Lăng Nguyễn Huỳnh Đức'' (sách đã dẫn).</ref>. Từ đó ông mang tên là '''[[Nguyễn Huỳnh Đức]]''.
 
Năm [[1783]], ông đánh nhau với quân Tây Sơn ở Đông Tuyên, nhưng bị thua, bị bắt cùng với 500 thuộc hạ. Chỉ huy quân Tây Sơn là [[Nguyễn Huệ]] thấy Nguyễn Huỳnh Đức khỏe mạnh, nên thu dùng. Ông chịu theo Tây Sơn nhưng có lời giao kết là ông chỉ đánh quân [[chúa Trịnh|Trịnh]], chứ không đánh nhau với quân của chúa Nguyễn <ref>''Lăng Nguyễn Huỳnh Đức'', đã dã dẫn.</ref>.
 
Năm [[1786]], [[Nguyễn Huỳnh Đức]] theo Nguyễn Huệ ra [[Bắc Hà]] đánh nhau với quân Trịnh, rồi về làm phó tướng cho [[Nguyễn Văn Duệ]]. Ông Duệ trước là tướng tâm phúc của [[Nguyễn Nhạc]] nên không thích ở dưới quyền của Nguyễn Huệ. Muốn lợi dụng việc này để trốn về với chúa Nguyễn, Nguyễn Huỳnh Đức bàn với Nguyễn Văn Duệ rằng hãy theo đường tắt mà lẻn về với Nguyễn Nhạc. Tin lời, ông Duệ dẫn hơn 5000 quân băng rừng rậm về [[Quy Nhơn]]. Trên đường, Nguyễn Huỳnh Đức lựa dịp trốn sang [[Vạn Tượng]] rồi qua [[Xiêm La]] ([[Thái Lan]]). Nhưng khi ông đến nơi, chúa Nguyễn đã về [[Gia Định]]. Vua Xiêm La muốn giữ lại, nhưng ông cương quyết về với chúa Nguyễn.
 
Năm [[1799]], ông được thăng chức Chưởng quản Hữu quân dinh, ra đánh chiếm được Phan Rí, rồi Thị Nại ([[Bình Định]]). Năm sau, ông dẫn quân đánh hạ được thành [[Quy Nhơn]], rồi được cử vào [[Nam Bộ|Nam]] cai quản xứ [[Định Tường]]. Sau khi Nguyễn Phúc Ánh chiếm thành [[Phú Xuân]], giao ông trấn giữ thành Quy Nhơn.
 
Năm [[1802]], Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua, lấy hiệu là [[Gia Long]], [[Nguyễn Huỳnh Đức]] được phong Quận công.
 
Năm [[1810]], ông được làm Tổng trấn Bắc thành kiêm Khâm sai Chưởng tiền quân. Năm [[1816]], ông trở về Nam làm Tổng trấn Gia Định cùng với Hiệp Tổng trấn [[Trịnh Hoài Đức]], cai quản toàn miền Nam.