Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Huỳnh Đức”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
n nhỏ |
||
Dòng 1:
[[Tập tin:Bàn thờ Nguyễn Huỳnh Đức.jpg|nhỏ|phải|
'''
==Thân thế==
Ông nguyên tên là '''
Vốn xuất thân trong một gia đình quan võ, ông nội là Huỳnh Châu, cha là Huỳnh Lương đều theo phò [[chúa Nguyễn]] và đều được phong chức Cai đội. Năm [[1731]], cha và ông nội theo Điều khiển [[Trương Phước Vĩnh]] tham gia trấn áp cuộc nổi loạn [[Sá Tốt]]. Sau khi cuộc nổi loạn được dẹp yên, vua Chân Lạp hoảng sợ và xin đem hai vùng đất là Peam Mesar ([[Mỹ Tho]]) và Longhôr ([[Vĩnh Long]]) dâng [[Nguyễn Phúc Chú|chúa Nguyễn]]. Để tiện việc coi giữ, chúa cho lập châu Định Viễn, dựng dinh Long Hồ, bổ nhiệm quan lại rồi đưa thêm dân Việt đến khai hoang lập nghiệp. Từ đó, gia đình ông ở lại khai khẩn và lập nghiệp tại vùng [[Vũng Gù]].
==Sự nghiệp==
Ngay từ lúc còn trẻ, ông đã có “dung mạo khôi ngô, khỏe mạnh hơn người, ai cũng coi ông là hổ tướng” <ref> Nguyễn Khắc Thuần, ''Việt sử giai thoại (tập 8)'', NXB Giáo dục, 1998, tr.21 </ref>. Năm [[1781]], ông gia nhập vào đội quân Đông Sơn của [[Đỗ Thanh Nhơn]]. Sau, mặc dù Thanh Nhơn bị [[Nguyễn Phúc Ánh]] giết chết, nhưng
Năm Nhâm Dần ([[1782]]), ông được phong chức Tiền quân. Từ đó về sau, cuộc đời ông gắn chặt với chúa Nguyễn. Có lần, Nguyễn Phúc Ánh bị quân [[Tây Sơn]] truy đuổi đến Định Tường thì bị sa lầy, chỉ mỗi một mình ông dám trở lại cứu chúa. Lúc ấy trời vừa chạng vạng tối, quân Tây Sơn sợ bị mai phục nên rút lui. Trong đêm đó, vì quá mỏi mệt, Nguyễn Phúc Ánh đã gối đầu lên đùi ông ngủ mê man...Cảm động, Nguyễn Phúc Ánh ban cho ông "quốc tính" và xem ông như người trong hoàng tộc.<ref> Theo ''Đại Nam chính biên liệt truyện'' (sơ tập, quyển 7) và ''Lăng Nguyễn Huỳnh Đức'' (sách đã dẫn).</ref>. Từ đó ông mang tên là '''
Năm [[1783]], ông đánh nhau với quân Tây Sơn ở Đông Tuyên, nhưng bị thua, bị bắt cùng với 500 thuộc hạ. Chỉ huy quân Tây Sơn là [[Nguyễn Huệ]] thấy Nguyễn Huỳnh Đức khỏe mạnh, nên thu dùng. Ông chịu theo Tây Sơn nhưng có lời giao kết là ông chỉ đánh quân [[chúa Trịnh|Trịnh]], chứ không đánh nhau với quân của chúa Nguyễn <ref>''Lăng Nguyễn Huỳnh Đức'', đã dã dẫn.</ref>.
Năm [[1786]],
Năm [[1799]], ông được thăng chức Chưởng quản Hữu quân dinh, ra đánh chiếm được Phan Rí, rồi Thị Nại ([[Bình Định]]). Năm sau, ông dẫn quân đánh hạ được thành [[Quy Nhơn]], rồi được cử vào [[Nam Bộ|Nam]] cai quản xứ [[Định Tường]]. Sau khi Nguyễn Phúc Ánh chiếm thành [[Phú Xuân]], giao ông trấn giữ thành Quy Nhơn.
Năm [[1802]], Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua, lấy hiệu là [[Gia Long]],
Năm [[1810]], ông được làm Tổng trấn Bắc thành kiêm Khâm sai Chưởng tiền quân. Năm [[1816]], ông trở về Nam làm Tổng trấn Gia Định cùng với Hiệp Tổng trấn [[Trịnh Hoài Đức]], cai quản toàn miền Nam.
Dòng 24:
Ngày 9 tháng 9 năm [[Kỷ Mão]] (tức [[27 tháng 10]] năm [[1819]]), ông mất khi đang tại chức, thọ 71 tuổi, an táng tại nơi quê nhà và được thờ tại miếu Trung hưng công thần tại [[kinh đô Huế]].
Năm [[Minh Mạng]] thứ 12 ([[1831]]), ông được truy tặng là Kiến Xương Quận công. Ông có 4 người con trai đều là võ quan, trong số đó có 2 người là rể vua Gia Long.
==Di tích==
[[Tập tin:Bia và mộ Nguyễn Huỳnh Đức.jpg|nhỏ|phải|
Hiện nay, nơi quê quán của Nguyễn Huỳnh Đức ở Long An, có đền thờ <ref>Ngôi chánh điện lợp ngói lưu ly xanh được gia tộc xây dựng năm 2000 theo bản vẽ của Kiến trúc sư [[Nguyễn Bá Lăng]], nguyên Viện trưởng [[Viện Khảo cổ Sài Gòn]].</ref> và lăng mộ ông, được dòng tộc giữ gìn khá tốt.
Tại đây có bức họa truyền thần được vẽ từ năm [[1802]] (ảnh), bộ ván độc mộc dài 3,4 [[m]] - rộng 1,8
Bên trong đền còn lưu giữ chiếc hộp sơn son đựng 8 bản chiếu, chỉ, chế, sắc của nhiều vua Nguyễn phong tặng.
Dòng 37:
Đặc biệt, nơi điện thờ còn lưu giữ đoản kỷ do vua [[Xiêm La]] ban tặng vào năm [[1789]], khi ông đi sứ qua đó; một khánh lệnh bằng đồng do vua Gia Long ban tặng vào năm [[1819]].
Cách không xa đền là khu lăng mộ Nguyễn Huỳnh Đức, với nhiều cây sứ cổ thụ. Trước mộ có tấm bia đá cao 1,
Vào ngày 26
==Đường phố==
|