Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tống Nhân Tông”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Soạn thảo trực quan Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 55:
| nơi an táng = [[Vĩnh Chiêu Lăng]]<ref>Nay nằm ở tây nam huyện Củng, [[Hà Nam]], [[Trung Quốc]]</ref> (永昭陵)
| tôn giáo = [[Phật giáo]]
}}
|nơi sinh=[[Biện Kinh]] , [[Đại Tống]]}}
'''Tống Nhân Tông''' ([[chữ Hán]]: 宋仁宗, [[12 tháng 5]], [[1010]] - [[30 tháng 4]], [[1063]]), tên húy '''Triệu Trinh''' (趙禎), là vị [[hoàng đế]] thứ tư của nhà [[nhà Tống|Bắc Tống]] trong [[lịch sử Trung Quốc]], trị vì từ năm [[1022]] đến năm [[1063]], tổng hơn 41 năm. Ông là người con trai độc nhất còn sống đến tuổi trưởng thành của [[Tống Chân Tông]], hoàng đế thứ ba của [[nhà Tống]], mẹ ông là một cung nữ hầu hạ Lưu hoàng hậu. Năm [[1023]], sau khi phụ hoàng qua đời, Triệu Trinh lên kế vị ngôi vua, tức là '''Tống Nhân Tông'''.
 
Trong hơn mười năm đầu thời Nhân Tông, thực quyền trong triều nằm trong tay mẹ nuôi của ông là [[Lưu Nga (Bắc Tống)|Chương Hiến Lưu Thái hậu]], Nhân Tông tuy đã trưởng thành nhưng vẫn không được thân chính, khiến quan hệ mẹ - con trở nên căng thẳng<ref>中國文明史 宋遼金時期, 宋代第一章 波瀾起伏的宋代政治, trang 208</ref>. Cho nên sau khi Lưu Thái hậu qua đời ([[1033]]), Nhân Tông đã thay đổi nhiều chính sách của bà ta<ref>Trung Quốc văn minh sử, Thời kỳ Tống Liêu Kim, trang 208</ref>. Nhưng do không phải là người mang hùng tâm tráng chí, không có khả năng quản lý triều chính nên ông lại bắt đầu trọng dụng lại các đại thần mà ông đã cách chức. Trong vấn đề đối nội, ông chủ trương làm theo [[Đường Thái Tông]], mở rộng con đường thi cử làm quan, vì thế dẫn đến số lượng quan lại trong nước tăng lên nhanh chóng và trở thành gánh nặng của quốc gia. Trong khi đó tham nhũng lan tràn, binh lực suy kém, quốc khố cạn kiệt khiến cho tình hình triều Tống trở nên tồi tệ. Để cứu vãn, vào năm [[1043]], Nhân Tông theo kiến nghị của [[Phạm Trọng Yêm]], thi hành [[Khánh Lịch tân chính]], Nhưng những chính sách mới này vấp phải sự phản đối của phe bảo thủ trong triều, cộng thêm binh biến, thiên tai liên tục, khiến Nhân Tông đổ lỗi cho "tân chính", ông quyết định bãi bỏ tân chính, dùng lại chính sách cũ, khiến quốc gia ngày càng suy yếu.
 
Về đối ngoại, ở phía tây bắc nước Tống, bộ lạc [[Đảng Hạng]] ngày càng lớn mạnh; đến năm [[1038]], thủ lĩnh tộc này là [[Lý Nguyên Hạo]] tự xưng là hoàng đế Tây Hạ và phát động chiến tranh với Tống; tuy Tống giành được chiến thắng nhưng lại phải nộp tiền triều cống hằng năm. Ở phía đông bắc vào năm [[1042]], triều Liêu dự định hưng binh nam hạ, buộc Tống phải cầu hòa và tăng tiền thuế lên 20 vạn, sử gọi là Trọng Hi tăng tệ. Sau khi tình hình ở phía bắc tạm thời được ổn định, thì ở phía nam triều Tống lại phải chống đỡ với sự quấy nhiễu của [[Việt Nam]] (đây là sự dối trá của sử nhà Tống bởi trước đó nhà Tống đã có âm mưu xâm lược Đại Việt và sau này bị quân đội nhà Lý đánh tan trên sông Như Nguyệt)và cuộc nổi dậy của [[Nùng Trí Cao]] ở Ung châu. Những cuộc chiến tranh liên miên và những khoản cống nạp như thế khiến ngân khố triều đình ngày càng kiệt quệ.
 
Dù Tống Nhân Tông nổi tiếng trong lịch sử là một vị hoàng đế háo sắc, hoang dâm vô độ, nhưng trong thời kì của ông xuất hiện hàng loạt các đại thần có thực lực và lòng trung thành hết lòng phò tá nhà vua, vì thế nền chính trị vẫn tương đối ổn định. Mặc dù không ngớt nạp thêm mĩ nhân vào cung, nhưng Nhân Tông lại không có được một người con trai nào còn sống sót để truyền ngôi vị. Sau khi ông qua đời, người cháu gọi ông bằng chú là Triệu Thực được tôn làm vua, tức là [[Tống Anh Tông]].
Dòng 154:
=== Chiến tranh với Tây Hạ ===
{{Bài chính|Chiến tranh Tống - Hạ (1040 - 1042)}}
[[Tập tin:China rel96 Vi.jpg|nhỏ|phải|270px|Bản đồ nhà Tống và các nước xung quanh, thế kỉ XI|thế=https://www.google.com/url?sa=i&source=images&cd=&cad=rja&uact=8&ved=2ahUKEwjpnqjDrM_hAhUQM94KHbROA7YQjRx6BAgBEAU&url=https%3A%2F%2Fen.wikipedia.org%2Fwiki%2FMilitary_history_of_the_Song_dynasty&psig=AOvVaw1qWLVsDK6xEq1tNJtGA8Og&ust=1555323168552536]]
Từ thời [[Tống Thái Tông]], bộ lạc [[Đảng Hạng]] ở miền tây bắc [[Trung Quốc]] ngày càng lớn mạnh, có ý đồ li khai, không thần phục triều Tống nữa. Đến năm [[1032]], [[Lý Nguyên Hạo]] lên kế nhiệm cha là [[Lý Đức Minh]], là tiết độ sứ Định Nan<ref>Có trị sở nay thuộc phía bắc huyện [[Tĩnh Biên]], [[Thiểm Tây]], [[Trung Quốc]]</ref><ref name="TS485">''[[Tống sử]]'', [[:zh:s:宋史/卷485|quyển 485]]</ref>, tước Tây Bình vương. Lý Nguyên Hạo là người tàn bạo, từ lâu đã có ý li khỏi tự lập. Lúc đó Nhân Tông dùng niên hiệu Minh Đạo, phạm vào tên cha của Nguyên Hạo (Đức Minh), nên trong nước ông ta tự ý đổi niên hiệu này thành Hiển Đạo. Tuy ban đầu vẫn nộp cống cho triều Tống nhưng cũng đã manh nha ý muốn chống đối. Đồng thời Nguyên Hạo cũng được [[nhà Liêu]] phong làm Hạ quốc vương.