Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Súng trường tấn công”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động |
||
Dòng 18:
=== Những năm 1900-1930 ===
[[Tập tin:Fedorov avtomat.jpg|300px|thumb|right|Khẩu Fedorov Avtomat]]
Amerigo [[Cei-Rigotti]] đã thiết kế một loại súng có khả năng của một khẩu súng trường công kích vào khoảng 1890-1900. Nó đã được thử nghiệm nhưng chưa bao giờ được mang ra sử dụng. Loại súng trường công kích đầu tiên được mang ra sử dụng chiến đấu là khẩu [[Súng trường tự động Fedorov|Fedorov Avtomat]] của [[Nga]] nó xuất hiện vào năm 1915 sử dụng loại đạn súng trường [[6,5×50mm Arisaka]] [[Nhật Bản]]. Loại đạn này cũng giống như loại đạn [[6,5x52mm Mannlicher-Carcano]] mà khẩu Cei-Rigotti từng sử dụng, chúng có sức sát thương khá thấp. Fedorov Avtomat đã được mang ra tác chiến với số lượng khoảng 3.200 khẩu. Vì một lý do nào đó các khẩu này đã được quân đội Nga và Liên Xô ưa chuộng nên chúng đã được thấy sử dụng cho đến tận [[chiến tranh thế giới thứ hai]]. Trọng lượng của toàn bộ khẩu súng này và đạn dược mà một binh lính phải mang theo chỉ khoảng dưới 5,5 kg.
Trong [[chiến tranh thế giới thứ nhất]] khẩu [[LMG]] [[Chauchat]] của [[Pháp]] đã cho ý tưởng về cấu trúc của súng trường công kích sau này. Nó có các đặc điểm của một khẩu súng trường công kích hiện đại đó là có thể bắn với chế độ từng viên hay tự động, có băng đạn rời và có tay nắm bắn. So sánh với các loại súng máy cùng thời khác thì Chauchat tương đối nhẹ với 9 kg nhưng nó vẫn quá cồng kềnh để có thể chiến đấu trong khu vực hẹp và độ giật của nó quá mạnh để có thể điều khiển khi bắn ở chế độ tự động vì nó sử dụng loại đạn mạnh là [[8 mm Lebel]] (8x50mmR) hay phiên bản sau đó là [[7,62×63mm]] (.30-06 Springfield) với một số loại đạn khác như 7.92 mm và 7.65 mm.
Dòng 24:
[[Ribeyrolle 1918]] có thể là một trong các loại súng đầu tiên được chế tạo tập hợp các tiêu chuẩn của súng trường công kích, sử dụng loại đạn [[.351 Winchester]] nhưng cũng có thể sử dụng loại đạn [[8 mm Lebel]]. Loại súng này được giới thiệu cho bộ phận kỹ thuật quân đội vào năm 1918 với tên là Carabine Mitrailleuse. Nhưng nó đã bị từ chối hoàn toàn năm 1921 sau khi các cuộc thử nghiệm cho thấy độ chính xác của loại súng này quá kém (dưới 400m tỷ lệ đạn bắn lệch ra ngoài bia vẫn rất cao).
Khẩu súng máy [[M1918 Browning Automatic Rifle|M1918 Browning]] của Hoa Kỳ là kết quả của việc sao chép khẩu Chauchat kết hợp với một số thiết kế lại đáng tin cậy hơn nhưng nó không được giới thiệu hay đưa vào sử dụng trước khi kết thúc thế chiến thứ nhất. Sau đó nó được trang bị một nòng nặng hơn và gắn thêm chân chống chữ V khiến nó giống như loại LMG hiện đại, nhưng nó cũng đã giúp tạo ra các học thuyết quân sự mới cho một loại súng trường tự động. Các mẫu khác nhau của loại súng này được sử dụng rộng rãi bởi quân đội Hoa Kỳ và các nước khác cho đến những năm 1960.
Trong chiến tranh thế giới thứ nhất các loại [[súng tiểu liên]] cũng đã xuất hiện và tham gia chiến đấu như [[Villar-Perosa (súng tiểu liên)|Villar Perosa]], [[Beretta M1918]] và [[
=== Những năm 1930 ===
Việc phát triển các loại đạn súng trường có độ dài trung bình là do yêu cầu về tính năng của đạn dược. Súng tiểu liên sử dụng đạn súng ngắn nên tầm bắn hiệu quả của loại súng này khá ngắn. Ngược lại những viên đạn súng trường cỡ lớn có thể bắn với tầm chính xác khá xa nhưng lại quá mạnh so với các loại súng cùng thời nên khó bắn liên tiếp, muốn bắn được chúng thì phải sử dụng những loại súng lớn, cồng kềnh, nặng và khó kiểm soát khi bắn vì độ giật rất cao. Chi phí thiết kế và sản xuất loại súng này cũng khá cao. Trong một nỗ lực để sử dụng được loại đạn độ dài trung bình cho một khẩu súng trường công kích, công ty vũ khí của Ý là [[Fabbrica d'Armi Pietro Beretta|Beretta]]
Năm 1942 Hoa Kỳ đã giới thiệu khẩu [[M1
Ban đầu ý tưởng về những khẩu carbine là một loại súng rẻ tiền, nhẹ dùng để cung cấp cho lực lượng hậu cần (những người lái xe tải, các đội lái xe tăng, đầu bếp...) nhưng kết quả là nó còn mắc hơn cả khẩu [[M1911 (Súng)|M1911]] hay [[M1 Garand]]. Dòng M1 đã được nhận thấy rằng nó rất hợp cho việc chiến đấu tầm gần và nó đã được sử dụng nhiều cho việc này sau đó. Các khẩu M1 carbine đã được quân đội Hoa Kỳ sử dụng cho đến những năm 1960 khi nó bị thay thế bằng khẩu [[M16]], nhưng nó vẫn được sử dụng trong một cách hạn chế trong việc huấn luyện Hải quân, Không quân, cảnh sát biển cũng như các ngành khác cho đến những năm 1980.
Dòng 39:
=== Những năm 1940 đầu những năm 1950 ===
[[Tập tin:MP44 - Tyskland - 8x33mm Kurz - Armémuseum.jpg|300px|thumb|right|Khẩu StG44 của Đức]]
Đức với [[Hòa ước Versailles|Hiệp ước Versailles]] đã phải giới hạn lực lượng quân đội chuyên nghiệp của mình xuống khoảng còn 100.000 quân tập hợp nhiều binh lính phục vụ lâu năm trong quân đội cũng như bị cấm sở hữu xe tăng hay máy bay quân sự. Điều này đã thúc đẩy ý chí để tạo ra các loại vũ khí có chất lượng cao công đoạn chế tạo và chi phí thấp với hiệu quả tác chiến cao theo phương châm chất lượng bù số lượng. Các học thuyết quân sự đã ra đời cùng và dựa theo khả năng tác chiến của [[
Đức cũng giống như nhiều nước khác đã nắm bắt được nhu cầu về các loại súng trường dành cho bộ binh từ thế chiến thứ nhất, cũng như các nhà máy của họ ché tạo ra nhiều loại đạn khác nhau không đúng với tiêu chuẩn cũ nên cũng chẳng có lý do gì để giữ lại các khẩu súng trường cũ. Loại đạn mới là 7.92x30 mm Kurz đã được nghiên cứu và thử nghiệm, kết quả là loại đạn [[7.92x33mm Kurz]] đã ra đời năm 1941 và sau đó nó được nâng cấp thêm vài lần nữa. Loại đạn 7.92x33mm của Đức chỉ đơn giàn là trùng kích cỡ với loại 7.62x33mm của Hoa Kỳ còn ngoài ra không có bất cứ sự liên quan nào kể cả các vấn đề nảy sinh hay cách hoạt động. Loại đạn 7.92x33mm sử dụng đầu đạn của loại đạn [[7.92x57mm Mauser]] với cùng đường kính.
Vào năm 1942 hãng sản xuất vũ khí [[Walther]] đã chế tạo khẩu Maschinenkarabiner với tên MKb42(W). Cùng năm đó [[Hugo Schmeisser]] cũng đã thiết kế khẩu MKb42(H). Rheinmetall-Borsig cũng đã giới thiệu khẩu Fallschirmjägergewehr 42 ([[
Khi gần kết thúc chiến tranh [[Mikhail Timofeyevich Kalashnikov|Mikhail Kalashnikov]] đã thiết kế khẩu [[AK-47]] nó có cách hoạt động rất khác với StG-44 của Đức. AK-47 sử dụng loại đạn [[7,62×39mm]] vốn được [[Simonov]] thiết kế năm 1945 và sản xuất rất nhiều cho các khẩu [[SKS]]. Loại súng này đã trở nên rất nổi tiếng và phổ biến vì độ đáng tin cậy của nó. Có những ý kiến nói rằng Kalashnikov đã lấy nền tảng từ khẩu StG44 để phát triển AK-47, nhưng nhiều nhà sử học đã bác bỏ ý kiến này, họ chỉ ra rằng Kalashnikov đã tiến hành thiết kế AK-47 từ năm 1943 (tức là trước khi StG-44 ra đời) do ông bị ấn tượng về những khẩu súng tiểu liên có thể bắn tự động, tốc độ bắn nhanh mà không cần tốn thời gian lên đạn.
Dòng 54:
Sau khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai quân đội các nước đã nghiên cứu về những vấn đề đã xảy ra trong cuộc chiến cũng như cách chiến đấu. Vài thứ được tìm ra đã mang áp dụng ngay cho thiết kế các loại vũ khí. Hầu hết việc nghiên cứu cho thấy rằng thương vong do bắn nhau hầu hết xảy ra trong phạm vi hẹp. Vì thế tầm bắn xa và chính xác của những khẩu súng trường bình thường nói chính xác ra là lãng phí. Các việc nghiên cứu cũng thấy rằng việc nhắm bắn không phải là nhân tố chính gây ra thương vong. Mà trên thực tế lượng thương vong gây ra hầu hết bởi số lượng đạn được bắn ra. Các binh sĩ trang bị vũ khí tự động như súng tiểu liên hay súng trường công kích những đời đầu thường rất thích sử dụng chúng trong các cuộc chiến. Việc kết hợp các yếu tố trên đã dẫn đến kết luận rằng một loại vũ khí tầm gần với khả năng bắn nhanh là loại vũ khí quan trọng và hiệu quả nhất cho bộ binh.
Trong khi các nghiên cứu đang được phân tích thì [[7,62×51mm NATO|đạn 7,62×51mm]] đã được giới thiệu như loại đạn tiêu chuẩn của quân đội [[NATO]]. Nó có thể sát thương trong phạm vi 500m. Trong lúc đó Anh cũng đang phát triển loại đạn 7×43mm ([[.280 British]]) cho loại súng trường [[EM-2]] có thiết kế [[băng đạn gắn phía sau]]. Tuy nhiên do sức ép chính trị của Đảng Bảo thủ vốn đồng ý với việc thống nhất tiêu chuẩn với Liên Minh nên dự án đã phải dời lại vài năm trước khi được công bố. Tại Bỉ, các công ty sản xuất vũ khí nổi tiếng tại đó như [[FN Herstal]] đã tiến hành thử nghiệm với các loại đạn của Đức như 7.92x33mm Kurzpatrone. Tuy nhiên NATO đã buộc họ phải sử dụng loại đạn theo tiêu chuẩn chung nên đã tạo ra khẩu [[FN FAL]], Thụy Sĩ đã giới thiệu khẩu [[SIG SG 510]] vẫn sử dụng loại đạn súng trường của Thụy Sĩ nhưng đồng thời cũng chế tạo khẩu SIG 510-4 sử dụng loại đạn [[7.62×51mm NATO]]. Bolivia và Chile đã thông qua khẩu SIG 510-4 như loại súng trường tiêu chuẩn của họ.
[[Tập tin:7.62x51 5.56x45.JPG|right|thumb|300px|7.62x51mm và 5.56x45mm của NATO]]
Với sự xuất hiện của loại đạn 7.62x51mm, Hoa Kỳ đã tiến hành thiết kế khẩu [[M14]] với hầu hết các thiết kế là của khẩu [[M1 Garand]] sử dụng trong chiến tranh thế giới thứ hai. Những thay đổi chính trong thiết kế là hộp đạn rời 20 viên cùng khả năng chọn chế độ bắn. khi các thử nghiệm ban đầu cho thấy sự hứa hẹn và các binh lính chuyên nghiệp đã chọn nó để sử dụng, tuy nhiên khả năng chọn chế độ bắn đã cho thấy nó không hiệu quả đối với những binh lính với kinh nghiệm trung bình. loại đạn 7.62m NATO này quá mạnh tạo ra một độ giật rất lớn khiến nó khó kiểm soát khi bắn ở chế độ tự động. Khi khẩu M14 được đưa vào sử dụng thì cũng là lúc [[Eugene Stoner]] tại [[ArmaLite]] đã phát triển một loại súng mới là [[AR-10]] vẫn dùng loại đạn 7.62mm NATO. Khi thử nghiệm khả năng loại súng của Stoner, quân đội đã ra sắc lệnh cuối cùng xem xét nghiêm túc việc phát triển loại đạn có chiều dài trung bình và loại đạn [[5,56×45mm NATO|5.56x45mm NATO]] đã được tạo ra. Stoner đã thu nhỏ loại súng đó lại cho phù hợp với loại đạn mới và đặc tên mới là [[AR-15]], mẫu mà cuối cùng được quân đội Hoa Kỳ sử dụng rộng rãi với tên là [[M16]]. Khẩu M16A1 được thấy sử dụng rộng rãi trong [[chiến tranh Việt Nam]] tuy nhiên do điều kiện môi trường nên nó thường xuyên bị kẹt đạn. Khẩu M16A2 được nâng cấp và cải tiến hơn đã được giới thiệu vào năm 1986 sử dụng loại đạn 5.56x45mm NATO do Bỉ nâng cấp với trọng
Các loại đạn cỡ đạn nhỏ như 5.56x45mm và [[5,45×39mm]] ít gây sát thương hơn các loại đạn có cỡ lớn hơn trước đó như [[7,62×39mm|7.62x39mm]]. Tuy nhiên các viên đạn nhỏ thường có sơ tốc cao hơn, có đường đạn tốt hơn cũng như trọng lượng nhẹ hơn.
Dòng 76:
Từ những năm 1990 các phụ kiện trang bị thêm cho súng được chú ý với sự xuất hiện nhiều các loại phụ kiện khác nhau được gắn trên các thanh răng. Điều này là do yêu cầu tăng tầm nhìn cũng như hiệu quả cho các lực lượng chống khủng bố, lược lượng phản ứng nhanh và lực lượng đặc nhiệm cũng như nhiều lực lượng khác muốn phát triển và nâng cấp các loại vũ khí cho riêng mình. Các phụ kiện có thể nói đến như đèn pin, nhắm laser, bộ phận [[ống giảm thanh|hãm thanh]], đèn hồng ngoại, hộp đạn tròn, báng súng gấp, cùng nhiều phụ kiện khác. Các phụ kiện này cũng có thể được sử dụng bởi dân thường.
Cùng với việc phát triển của các phụ kiện thì các súng trường công kích khác nhau cũng có thể được lắp ráp từ các khối phụ tùng khác nhau. Một số khẩu súng có thể hoàn toàn thay đổi vẻ ngoài khi gắn các hệ thống này. Hay có thể thay đổi cách hoạt động với việc chỉ cần thay thế bằng các bộ phận khác, chúng có thể chuyển từ một khẩu súng trường thành một khẩu [[
== So sánh các loại đạn của súng trường công kích dùng phổ biến ==
|