Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Canxit”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Escarbot (thảo luận | đóng góp)
n r2.7.2) (Bot: Thêm an:Calcita; dời be:Кальцый
Dòng 44:
==Tính chất==
[[Tập tin:Calcite jaune.jpg|nhỏ|trái|Doubly terminated calcite crystal]]
Tinh thể Canxitcanxit có dạng hình hộp thoi ba phương, mặc dù tinh thể canxit hình hộp thoi rất hiếm gặp trong tự nhiên. Tuy nhiên, chúng thể hiện tính chất đa dạng từ hình hộp thoi nhọn đến tù, dạng phẳng, lặng trụ, hoặc hình tam giác lệch. Canxit thể hiện một vài dạng [[song tinh]] bổ sung vào sự đa dạng về các dạng quan sát được. Nó có thể tồn tại ở thể sợi, hình hột, lá mỏng, hoặc khối đặc. Cát khai thường ở 3 hướng song song với dạng hình hộp thoi. Vết vỡ vỏ sò, nhưng khó để thu được. Độ cứng trên thang [[Mohs]] là 3, tỷ khối riêng là 2.71, ánh thủy tinh ở dạng tinh thể. Màu trắng hoặc không màu, mặc dù bóng có màu xám, đỏ, vàng, xanh, xanh lá, tím,, nâu, thậm chí cả đen khi khoáng vật có lẫn tạp chất.
 
Canxit trong mờ đến trong suốt và có thể phát quang hoặc phát lân tinh.
 
Tinh thể Canxitcanxit đơn thể hiện tính chất quang học [[khúc xạ đúp]]. Hiện tượng này khiến cho các vật nhìn xuyên qua một miếng can xít trong sẽ khúc xạ kép. Hiện tượng này lần đầu tiên được mô tả bởi nhà khoa học Đan Mạch Rasmus Bartholin năm 1669. Ở bước sóng ~590 nm can xítcanxit có hệ số khúc xạ thường và bất thường là 1.658 và 1.486.<ref>{{cite web|url=http://hypertextbook.com/physics/waves/refraction/|title=Refraction|last=Elert|first=Glenn|work=The Physics Hypertextbook}}</ref> Giữa 190 và 1700 nm, hệ số khúc xạ thường biến thiên giữa 1.6 và 1.3, hệ số khúc xạ bất thường biến thiên giữa 1.9 và 1.5. <ref>{{cite journal |author = Thompson, D.W. et al.|year=1998 |title=Determination of optical anisotropy in calcite from ultraviolet to mid-infrared by generalized ellipsometry|journal= Thin Solid Films|volume=313-314 |issue= |pages=341–346|doi=10.1016/S0040-6090(97)00843-2}}</ref>
 
Canxit, giống như phần lớn các muối carbonat, sẽ bị hòa tan trong phần lớn cá loại [[axit]]. Canxit có thể bị hòa tan bởi nước ngầm hoặc lắng đọng bởi nước ngầm, phụ thuộc vào một vài nhân tố trong đó có nhiệt độ nước, độ pH, và nồng độ ion hòa tan. Mặc dù canxit khá khó tan trong nước lạnh, axit có thể làm canxit tan và giải phóng khí carbon dioxit. Can xít thể hiện đặc tính bất thường, nó trở nên ít tan hơn trong nước khi nhiệt độ tăng. Khi điều kiện phù hợp để kết tủa, canxit tạo thành lớp phủ khoáng vật mà hàn gắn các hạt đá lại hoặc có thể lấp đầy các vết nứt. Khi điều kiện phù hợp để bị hòa tan, sự rửa trôi canxit có thể tăng đột ngột tính thấm, tính rỗng của đá, và nếu nó kéo dài trong một thời gian dài có thể tạo thành các hang lớn, đáng chú ý là hang Snowy River Caver ở Lincoln County, New Mexico.