Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Estonia”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Soạn thảo trực quan Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 50:
'''Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Estonia''' (<small>[[Tiếng Estonia]]:'' Eesti Nõukogude Sotsialistlik Vabariik ''</small>; <small>[[Tiếng Nga]]: ''Эстонская Советская Социалистическая Республика, Estonskaya Sovetskaya Sotsalisticheskaya Respublika''</small>) từng là một cộng hòa thuộc [[Liên Xô|Liên bang Xô viết]].<ref>{{chú thích sách |title=Democratization and revolution in the USSR, 1985-1991 |last=Hough |first=Jerry F |authorlink= |coauthors= |year=1997 |publisher=Brookings Institution Press |location= |isbn=0815737491 |page= |pages= |url=http://books.google.com/?id=_JdMHJ0v_twC&pg=PA214&dq |accessdate=}}</ref><ref>{{Chú thích web | tiêu đề=Republic, definition 3 | url=http://www.merriam-webster.com/dictionary/republic | work=Merriam-Webster Online Dictionary | nhà xuất bản=Merriam-Webster Online | năm=2009 | ngày truy cập = ngày 9 tháng 6 năm 2009}}</ref> CHXHCNXV Estonia ban đầu được thành lập trên lãnh thổ của Cộng hòa Estonia trước đây vào ngày 21 tháng 7 năm 1940, sau khi quân đội Liên Xô tiến vào nước này vào ngày 17 tháng 6 năm 1940 và lập nên một chính phủ được Liên Xô ủng hộ, và sau đó tuyên bố Estonia trở thành một nhà nước Xô viết. CHXHCNXV Estonia sau đó sáp nhập vào Liên Xô vào ngày 9 tháng 8 năm 1940.<ref>The Baltic States: Estonia, Latvia and Lithuania (Postcommunist States and Nations) David J. Smith from Front Matter ISBN 0-415-28580-1</ref><ref>Estonia: Identity and Independence: Jean-Jacques Subrenat, David Cousins, Alexander Harding, Richard C. Waterhouse on Page 246. ISBN 90-420-0890-3</ref> Sau đó lãnh thổ này bị Đức Quốc xã xâm chiếm từ 1941 đến 1944.
 
Hầu hết các nước phương Tây không công nhận sự sáp nhập Estonia vào Liên Xô và chỉ công nhận chính quyền Xô viết của cộng hòa một cách không chính thức hoặc không công nhận tất cả.<ref>{{chú thích sách |title=The Baltic question during the Cold War |last=Hiden |first=John |authorlink= |coauthors=Vahur Made, David J. Smith |year=2008 |publisher=Routledge |location= |isbn=0415371007 |pages=209 |url=http://books.google.com/?id=jx4JQycHtnkC&pg=PA120}}</ref><ref name="RGIL">{{chú thích sách |title=Recognition of Governments in International Law |last=Talmon |first=Stefan |authorlink= |coauthors= |year=2001 |publisher=Oxford University Press |location= |isbn=9780198265733 |pages=103 |url=http://books.google.com/?id=scc8EboiJX8C&pg=PA103&dq }}</ref><ref>{{chú thích sách |title=Handbook of International Law |last=Aust |first=Anthony |authorlink= |coauthors= |year=2005 |publisher=Cambridge University Press, |location= |isbn=0521823498 |pages=26 |url=http://books.google.com/?id=EqO9rKIcoQMC&pg=PA26}}</ref> Một số nước trong số này tiếp tục công nhận các nhà ngoại giao và lãnh sự Estonia với đầy đủ trách nhiệm theo tên của chính phủ cộng hòa trước năm 1940.<ref name="Without a Country Page 2">Diplomats Without a Country: Baltic Diplomacy, International Law, and the Cold War by James T. McHugh, James S. Pacy, Page 2. ISBN 0-313-31878-6</ref> Do chính sách không công nhận này nên về lý thuyết, phương Tây coi Estonia vẫn là một quốc gia độc lập nằm dưới sự chiếm đóng bất hợp pháp trong thời kỳ 1940-1991.<ref name="smith">David James Smith, ''Estonia: independence and European integration'', Routledge, 2001, ISBN 0-415-26728-5, pXIX</ref> Cộng hòa Estonia tái lập nền độc lập vào ngày 20 tháng 8 năm 1991.
== Kinh tế ==
Trong hệ thống kinh tế của Liên Xô, tất cả số tiền thu được tại địa phương ban đầu được đóng góp vào ngân sách liên bang tại [[Moscow]] và một số trong số đó đã được đầu tư trở lại vào các nền kinh tế địa phương. Các số liệu cho các khoản đầu tư này đã được cung cấp cho công chúng, do đó thúc đẩy một ấn tượng tích cực về những đóng góp của Trung tâm Liên bang Xô viết cho ngoại vi, bao gồm các quốc gia Baltic. Tuy nhiên, con số đầu tư không đại diện cho thu nhập thực tế; thay vào đó, chúng giống với khía cạnh chi tiêu của [[ngân sách]] quốc gia.<ref>[http://izvestia.ru/news/537100 Izvestija], "Опубликованы расчеты СССР с прибалтийскими республиками" 9 октября 2012, 14:56</ref> Tại Estonia vào năm 1947, các doanh nghiệp tư nhân đã hoàn toàn biến mất, kèm theo một sự công nghiệp hóa nhanh chóng xảy ra ngay sau khi Liên Xô sáp nhập Estonia .<ref name="frucht102" /> Các nhà hoạch định Liên Xô đã mở rộng khai thác và chế biến đá phiến dầu vào cuối những năm 1940, tiếp quản ngành công nghiệp đó ở phía đông bắc Estonia.<ref name="frucht102" /> Vào những năm 1970, nền kinh tế Liên Xô đã trải qua sự trì trệ trầm trọng.<ref name="frucht102" />
 
Thu nhập quốc dân trên đầu người ở Estonia cao hơn các nơi khác ở Liên Xô (44% so với mức trung bình của Liên Xô năm 1968).<ref>{{cite book |title= The Baltic States, years of dependence, 1940–1990|last= Misiunas|first= Romuald J.|author2=Rein Taagepera|year= 1993|publisher= University of California Press|isbn= 978-0-520-08228-1|pages= 185}}</ref> Tuy nhiên, mức thu nhập cũng vượt qua Liên Xô khi Estonia độc lập.<ref>[http://www.ggdc.net/maddison/articles/colin_clark.pdf Measurement Before and After Colin Clark] Australian Economic History Review; Angus Maddison. 2004, page 33</ref> Các nguồn dữ liệu chính thức của Estonia cho rằng sự chiếm đóng của Liên Xô đã làm chậm đáng kể sự tăng trưởng kinh tế của Estonia, dẫn đến một "khoảng cách giàu nghèo" rộng lớn so với các nước láng giềng ([[Finland|Phần Lan]], [[Sweden|Thụy Điển]]).<ref>[http://www.riigikogu.ee/public/Riigikogu/ValgeRaamat.pdf Valge raamat], pages 125, 148</ref> Ví dụ, nền kinh tế và mức sống của người Estonia tương tự như ở Phần Lan trước [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến II]].<ref>[ ESTONIA AND FINLAND – A RETROSPECTIVE SOCIOECONOMIC COMPARISON. Edited by Olev Lugus and Pentti Vartia. ETLA (The Research Institute of the Finnish Economy), TAMI (Institute of Economics of Estonian Academy of Science), VATT (Government Institute of Economic Research, Finland)], Helsinki, 1993, pages 302-313</ref> Bất chấp những tuyên bố cải thiện tiêu chuẩn của Liên Xô và Nga, thậm chí ba thập kỷ sau Thế chiến II, Estonia vẫn còn tình tình trạng thiếu nhà ở và lương thực và thua xa Phần Lan không chỉ về mức thu nhập, mà còn ở tuổi thọ trung bình.<ref name="EstRtoI">Taagepera, Rein.<u>Estonia, Return to Independence. Westview Series on the Post-Soviet Republics.</u> Westview Press in cooperation with the Harriman Institute. 1993.</ref><ref>[http://www.just.ee/orb.aw/class=file/action=preview/id=19158/valgeraamat.pdf Государственная комиссия по расследованию репрессивной политики оккупационных сил. Белая Книга о потерях причиненных народу Эстонии оккупациями 1940–1991.] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20070610063924/http://www.just.ee/orb.aw/class=file/action=preview/id=19158/valgeraamat.pdf |date=June 10, 2007 }}, page 47</ref> Ngoài ra, [[Khối Warszawa|các nước trong khối Warsaw]] đã trải qua sự kém hiệu quả của các hệ thống này mà không có sự cạnh tranh hay giá cả bù trừ thị trường trở nên tốn kém và không bền vững và họ tụt hậu đáng kể so với các đối tác Tây Âu về [[thu nhập bình quân đầu người]] và [[tổng sản phẩm quốc nội]].<ref name="hardt">{{Harvnb|Hardt|Kaufman|1995|p=1 and 17}}</ref> GDP năm 1990 trên đầu người của Estonia là 10.733 USD so <ref name="maddison185">{{Harvnb|Maddison|2006|p=185}}</ref> với 26.100 USD của Phần Lan.<ref name="hardt" /> Các nguồn dữ liệu của Estonia ước tính thiệt hại kinh tế liên quan trực tiếp đến sự chiếm đóng thứ hai của Liên Xô (từ năm 1945 đến năm 1991) khoảng hàng trăm tỷ [[USD]].<ref>[http://www.riigikogu.ee/public/Riigikogu/ValgeRaamat.pdf Valge raamat], page 20</ref> Tương tự, thiệt hại cho [[Sinh thái học|hệ sinh thái]] Estonia ước tính khoảng 4 tỷ USD.
 
=== Nông nghiệp ===