Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến tranh thế giới thứ hai”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 672:
=== Những tiến bộ trong công nghệ và chiến tranh ===
{{chính|Khoa học kỹ thuật trong Chiến tranh thế giới thứ hai}}
[[Tập tin:V-2 Rocket On Meillerwagen.jpg|nhỏ|Một quả tên lửa đạn đạo [[Tên lửa V-2|V-2]] trên [[Meillerwagen]], một phương tiện chuyên chở tên lửa của Đức]]
 
Công nghệ đóng một vai trò quan trọng đối với kết cục cuối cùng của chiến tranh thế giới thứ hai. Phần lớn các công nghệ mới được phát triển trong giai đoạn 1940-1945 khi cuộc chiến đang diễn ra , một số được phát triển để đáp ứng nhu cầu chiến tranh và một số bắt đầu được phát triển khi chiến tranh kết thúc.
 
Công nghệ vũ khí quân sự đạt được bước tiến nhanh chóng trong chiến tranh thế giới thứ II. Trong hơn sáu năm, đã có nhiều thay đổi lớn trong chiến đấu từ máy bay cho đến vũ khí bộ binh. Thật vậy, cuộc chiến bắt đầu với hầu hết các quân đội sử dụng công nghệ tương tự chiến tranh thế giới thứ I, và trong một số trường hợp, vẫn không thay đổi kể từ thế kỷ 19. Kỵ binh, chiến hào, và tàu chiến trong chiến tranh thế giới thứ nhất vẫn tiếp tục xuất hiện vào năm 1940, tuy nhiên trong vòng sáu năm, quân đội trên khắp thế giới đã phát triển được [[máy bay phản lực]], [[tên lửa đạn đạo]], và thậm chí cả [[Vũ khí hạt nhân|vũ khí nguyên tử]] như Hoa Kỳ.
[[Tập tin:Bundesarchiv Bild 101I-461-0212-12, Russland, Panzer VI (Tiger I).jpg|nhỏ|Hai chiếc xe tăng [[Xe tăng Tiger I|Tiger I]] trong một khu rừng ở [[Nga]]]]
[[Tập tin:V-2 Rocket On Meillerwagen.jpg|nhỏ|Một quả tên lửa đạn đạo [[Tên lửa V-2|V-2]] trên [[Meillerwagen]], một phương tiện chuyên chở tên lửa của Đức]]
Tiến bộ diễn ra trong gần như mọi khía cạnh của lực lượng hải quân, đáng chú ý nhất là với các hàng không mẫu hạm và tàu ngầm. Mặc dù chiến tranh trên không có khá ít thành công vào giai đoạn đầu của cuộc chiến, các diễn biến tại [[Trận Taranto]], [[Trận Trân Châu Cảng]] và [[Trận chiến biển San Hô]] đã đưa tàu sân bay trở thành tàu chiến chủ lực thay thế các loại [[thiết giáp hạm]]. Ở Đại Tây Dương, tàu sân bay hộ tống đã chứng tỏ được vai trò quan trọng trong đoàn tàu thuộc quân Đồng minh, tăng bán kính bảo vệ hiệu quả và giúp thu hẹp khoảng cách của Đại Tây Dương. Các tàu sân bay cũng tiết kiệm hơn tàu chiến vì kinh phí sản xuất máy bay tương đối thấp và chúng hiệu quả hơn trong việc chống [[tàu ngầm]], là một vũ khí hiệu quả trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, được tất cả các bên được dự đoán là thứ vũ khí quan trọng trong chiến tranh thế giới lần thứ hai. Người Anh tập trung phát triển vũ khí và chiến thuật chống tàu ngầm, như sonar và các đoàn tàu vận tải, trong khi Đức tập trung cải thiện khả năng tấn công, với các ý tưởng như chiến thuật tàu ngầm và tàu ngầm mới [[Type VII]].
[[Tập tin:Carrier shokaku.jpg|trái|nhỏ|Những chiếc [[Mitsubishi A6M Zero|A6M Zero]] thuộc đợt tấn công thứ hai chuẩn bị cất cánh từ tàu sân bay ''[[Shōkaku (tàu sân bay Nhật)|Shokaku]]'' để tấn công Trân Châu Cảng]]
Dòng 684:
 
Ngay cả khi cơ giới hóa quy mô lớn, bộ binh vẫn là xương sống của tất cả các lực lượng, và trong suốt cuộc chiến, hầu hết các bộ binh đều được trang bị tương tự như Thế chiến I. Súng máy cầm tay lan rộng, một ví dụ đáng chú ý là [[MG-34]] của Đức, [[PPSh-41]] của Liên Xô và nhiều loại súng tiểu liên khác phù hợp để chiến đấu trong môi trường đô thị và rừng rậm. Súng trường liên thanh, một sự phát triển cuối chiến tranh kết hợp nhiều tính năng của súng trường và súng tiểu liên, trở thành vũ khí bộ binh tiêu chuẩn sau chiến tranh cho hầu hết các lực lượng vũ trang.
 
[[Tập tin:Bundesarchiv Bild 101I-461-0212-12, Russland, Panzer VI (Tiger I).jpg|nhỏ|Hai chiếc xe tăng [[Xe tăng Tiger I|Tiger I]] trong một khu rừng ở [[Nga]]]]
Không quân đã trở thành một phần rất quan trọng trong suốt cuộc chiến, cả trong các hoạt động chiến thuật và chiến lược. Sự vượt trội của máy bay Đức, được hỗ trợ bằng cách thay đổi liên tục thiết kế và đổi mới công nghệ, cho phép quân đội Đức tràn ngập Tây Âu với tốc độ nhanh chóng trong năm 1940, một phần cũng do thiếu sự hỗ trợ của máy bay Đồng minh, bởi việc tụt hậu trong thiết kế và phát triển kỹ thuật do quá trình sụt giảm trong nghiên cứu đầu tư sau cuộc [[Đại khủng hoảng]]. Kể từ khi kết thúc chiến tranh thế giới I, lực lượng không quân Pháp đã bị ảnh hưởng nặng và gần như đã bị lãng quên, khi các nhà lãnh đạo quân sự thích chi tiền cho bộ binh và công sự ngầm noi theo phong cách chiến tranh ở chiến tranh thế giới thứ nhất. Kết quả là năm 1940, Không quân Pháp chỉ có 1.562 máy bay và cùng với 1.070 máy bay của [[không quân Hoàng gia Anh]] phải đối mặt với 5.638 máy bay chiến đấu và máy bay ném bom của không quân Đức. Hầu hết các sân bay Pháp đã được đặt ở phía đông bắc nước Pháp, và đã nhanh chóng bị tàn phá trong giai đoạn đầu của chiến dịch. Không quân Hoàng gia của Vương quốc Anh sở hữu một số máy bay chiến đấu tiên tiến, chẳng hạn như [[Supermarine Spitfire|Spitfire]] và [[Hawker Hurricane|Hurricane]], nhưng không thích hợp cho việc tấn công các lực lượng mặt đất trên chiến trường, và số lượng nhỏ các máy bay được phái đến Pháp với lực lượng viễn chinh Anh đã bị phá hủy khá nhanh chóng. Sau đó, Không quân Đức đã có thể để đạt được ưu thế trên không trước Pháp vào năm 1940, cho quân đội Đức một lợi thế to lớn về trinh sát và tình báo.[[Tập tin:Hawker Sea Hurricanes of the Fleet Air Arm, based at RNAS Yeovilton, flying in formation, 9 December 1941. A9534.jpg|trái|nhỏ|5 chiếc máy bay tiêm kích [[Hawker Hurricane|Hurricane]] đang bay theo đội hình, trên căn cứ không quân Yeovilton, [[Anh]], ngày 9 tháng 12 năm 1941 ]]Hầu hết các quốc gia lớn đã cố gắng giải quyết các vấn đề về độ phức tạp và bảo mật liên quan đến việc sử dụng các cuốn sách mã lớn cho mật mã bằng cách thiết kế các máy mã hóa, nổi tiếng nhất là máy Enigma của Đức. Phát triển SIGINT (tín hiệu thông minh) và phân tích mật mã cho phép quá trình giải mật mã có thể được thực hiện. Các ví dụ đáng chú ý là giải mã đồng minh mã hải quân Nhật Bản và British Ultra, một phương pháp được ưu tiên để giải mã Enigma được hưởng lợi từ thông tin được cung cấp cho Vương quốc Anh bởi Cục Mật mã Ba Lan, nơi đã giải mã các phiên bản đầu tiên của Enigma trước chiến tranh.
[[Tập tin:Trinity Test Mushroom Cloud 12s.jpg|nhỏ|Vụ thử bom hạt nhân [[Trinity (vụ thử hạt nhân)|Trinity]], thuộc chương trình Manhattan của quân đội Hoa Kỳ]]
Các nghiên cứu và phát triển [[Vũ khí hạt nhân|bom hạt nhân]] trong chiến tranh bao gồm [[dự án Manhattan]], nỗ lực để nhanh chóng phát triển một quả bom nguyên tử, hoặc đầu đạn hạt nhân phân hạch. Nó có lẽ là sự phát triển quân sự trong chiến tranh có tính chất sâu xa nhất, và đã có một tác động lớn đến cộng đồng khoa học, trong số những thứ khác tạo ra một mạng lưới các phòng thí nghiệm quốc gia tại Hoa Kỳ.[[Tập tin:Trinity Test Mushroom Cloud 12s.jpg|nhỏ|Vụ thử bom hạt nhân [[Trinity (vụ thử hạt nhân)|Trinity]], thuộc chương trình Manhattan của quân đội Hoa Kỳ]]Bom nguyên tử đã được chế tạo thành công quá muộn để sử dụng tại chiến trường châu Âu của Chiến tranh thế giới thứ II. Phát minh của nó có nghĩa rằng chỉ cần một [[máy bay ném bom]] duy nhất có thể mang theo vũ khí đủ mạnh để tàn phá toàn bộ thành phố, làm cho chiến tranh thông thường chống lại một quốc gia với một quân đội vượt trội không đủ sức đe dọa những nước sở hữu vũ khí hạt nhân.
 
== Tóm tắt ==