Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trần Hưng Đạo”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
bổ sung giới thiệu |
bổ sung giới thiệu |
||
Dòng 36:
'''Trần Hưng Đạo''' ([[chữ Hán]]: 陳興道), còn được gọi là '''Hưng Đạo đại vương''' (興道大王) hay '''Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương''' (仁武興道大王) là một [[nhà chính trị]], quân sự, tôn thất hoàng gia [[Đại Việt]] thời [[nhà Trần|Trần]]. Ông được biết đến trong [[lịch sử Việt Nam]] với việc chỉ huy quân đội đánh tan [[Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt|hai cuộc xâm lược của quân Nguyên–Mông năm 1285 và năm 1288]]. Năm mất của ông theo sử sách ghi nhận là năm 1300 nhưng năm sinh thì đến nay vẫn chưa được xác định chắc chắn. Ông nguyên có tên khai sinh là '''Trần Quốc Tuấn''' (陳國峻). Phần lớn tài liệu nghiên cứu lịch sử và cả dân gian thời sau thường dùng tên gọi vắn tắt là "Trần Hưng Đạo" thay cho cách gọi tên đầy đủ và trang trọng là "Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn" dành cho ông. Cách gọi tên các danh nhân theo kiểu vắn tắt này là phổ biến dưới thời phong kiến ngày xưa. Cần lưu ý rằng "Hưng Đạo đại vương" là [[phong tước|tước phong]] chính thức cao nhất do vua nhà Trần ban tặng cho Trần Quốc Tuấn lúc sinh thời do công lao trận mạc của ông và tước "Hưng Đạo đại vương" có cấp bậc cao hơn tước "Hưng Đạo vương", dù cùng thuộc hàng [[vương tước]] được ban cho các con cháu hoàng tộc nhà Trần đương thời.
Năm [[1288]], quân Nguyên trở lại xâm lược [[Đại Việt]]. Hưng Đạo vương tiếp tục làm Quốc công tiết chế; ông khẳng định với [[Trần Nhân Tông]]: ''"Năm nay đánh giặc nhàn"''. Ông đã dùng lại kế cũ của [[Ngô Quyền]], đánh bại hoàn toàn thủy quân của các tướng [[Phàn Tiếp]], [[Ô Mã Nhi]] trong trận Bạch Đằng. Quân Nguyên lại phải chạy về nước. [[Tháng 4]] âm lịch năm [[1289]], [[Trần Nhân Tông]] chính thức gia phong ông làm '''Đại vương''', dù chức quyền đứng đầu triều đình khi đó vẫn thuộc về Thượng tướng Thái sư Chiêu Minh Đại vương [[Trần Quang Khải]].
|