Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tiểu thuyết”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 29:
Thời kỳ [[Phục Hưng]] đã tạo cơ sở thuận tiện nhất cho sự phát triển tiểu thuyết: chất tiểu thuyết bộc lộ trong các tác phẩm ''thể truyện'' như của [[Giovanni Boccaccio]], ''thể trường ca'' của Matteo Maria Boiardo, Ludovico Ariosto, [[Torquato Tasso]] và ''thể kịch'' với [[William Shakespeare]]. Nhưng tiểu thuyết đích thực gắn với những tìm tòi tư tưởng triết lý, chỉ xuất hiện vào cuối thời đại Phục Hưng với [[Don Quixote]]. Sau thời Phục Hưng, khi [[văn học tao nhã]] là chủ đạo, thì xu hướng phát triển tiểu thuyết chỉ bộc lộ rõ trong các sáng tác thuộc loại [[tiểu thuyết du đãng]] khai thác các đặc điểm trào phúng, sự hư cấu tự do, vai trò của kinh nghiệm cá nhân tác giả trong sáng tạo nghệ thuật (các tác phẩm của [[François Rabelais]], [[Desiderius Erasmus]], [[Michel de Montaigne]] Jean Henri Merle D'Aubigné v.v.), và [[tiểu thuyết tâm lý]] đầu tiên với sáng tác của Madame de La Fayette.
 
Sang [[thời đại Khai sáng]] và thời cận đại, từ thế kỷ XVIII, tiểu thuyết đã đi một chặng đường dài với sự hình thành các kết cấu chính. [[Truyện hiệp sĩ Des Grieux và nàng Mannon Lescault]] (1731) của Abbé Prévost kết hợp hữu cơ được hai thể tài tâm lý và du đãng. Samuel Richardson với [[Clarisse Harlow]] (1747), [[Jean Jacques Rousseau]] với [[Julie hay nàng Héloïse mới ]] (1761) đưa ra những mẫu mực của [[tiểu thuyết tình cảm]] đồng thời củng cố vai trò chủ đạo của [[tiểu thuyết luận đề]]. [[Henry Fielding]], Tobias Smollett đã đóng góp cho sự hình thành nguyên tắc điển hình hóa của [[tiểu thuyết hiện thực]], làm tiền đề cho sự nở rộ tiểu thuyết của [[chủ nghĩa hiện thực]] phát triển mạnh giai đoạn sau đó với [[Honoré de Balzac]], [[Émile Zola]], [[Stendhal]], [[Gustave Flaubert]], [[Charles Dickens]], [[William Makepeace Thackeray]] ([[tiểu thuyết toàn cảnh]], [[tiểu thuyết hướng tâm]]). [[Tiểu thuyết sử thi]] của [[Lev Tolstoy]] với sự trần thuật đạt được chiều rộng và tính bao quát, sự mô tả đời sống nội tâm nhân vật như một quá trình tâm lý nội tại lần đầu tiên cho phép tiểu thuyết tái hiện được "biện chứng của tâm hồn". [[Tiểu thuyết đối thoại]] của [[Fyodor Dostoevsky]] với con người đời tư được đặt trong tương quan với cả thế giới.
 
Thế kỷ XX tiểu thuyết phương Tây phát triển trong sự đa dạng đối nghịch nhau về nhiều mặt, bên cạnh những thành tựu của [[tiểu thuyết hiện thực]] với khuynh hướng [[hiện thực phê phán]] hoặc khuynh hướng [[hiện thực xã hội chủ nghĩa]], hướng sáng tác mới của [[Marcel Proust]], [[James Joyce]], [[Franz Kafka]] lại cho thấy một loạt các nguyên tắc tiểu thuyết vốn đã thành truyền thống trước kia bị biến đổi: [[độc thoại nội tâm]] bao trùm tác phẩm như một thủ pháp của [[dòng ý thức|tiểu thuyết dòng ý thức]]; sự xáo trộn liên tục các bình diện thời gian và không gian, các mảng đời sống hiện thực hòa quyện cùng huyền thoại, xuất hiện người kể chuyện không toàn năng khi trong lời kể có cả cái biết và cái không biết, cái khách quan lẫn chủ quan. Các vấn đề về "ngôi" và "thời" của lời trần thuật và các "điểm nhìn" trần thuật trở thành chìa khóa cho việc đọc tiểu thuyết theo khuynh hướng phức điệu, đa thanh. Bên cạnh đó, các trào lưu tư tưởng đương thời như [[hiện tượng học]], [[thuyết phi lý]], [[chủ nghĩa hiện sinh]], [[phân tâm học]], [[hậu hiện đại]], [[phê bình nữ quyền]], [[hậu thực dân]] cũng góp phần tạo ra những dạng thức như [[phản tiểu thuyết]], [[tiểu thuyết mới]], hoặc làm nảy sinh tư tưởng về nhân vật biến mất, hoặc tiểu thuyết cáo chung v.v.