Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ngọc tỷ truyền quốc”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
|||
Dòng 1:
'''Ngọc tỷ truyền quốc''' là ''ấn triện'' [[hoàng đế]] [[Trung Quốc]], bắt đầu từ thời [[nhà Tần]] và được truyền qua nhiều triều đại và biến cố trong [[lịch sử Trung Quốc]].
Ngọc
==Ý nghĩa của ấn triện trước khi có ngọc tỷ==
[[Ấn triện]] thực chất là một con dấu. [[Thời cổ đại]], ấn triện mang ý nghĩa là bằng chứng của quyền lực chính trị của người mang ấn. Với mỗi chức quan hay tướng quân đội đều có ấn và người cầm ấn được coi là người có thực quyền trong tay. Không còn ấn là không còn quyền. Viên quan nào bị tội phải bãi chức hay bị điều nhậm nơi khác thì phải trả lại ấn cho triều đình.
Mỗi ấn triện quy định quyền hạn theo lĩnh vực, quan văn có ấn riêng và quan võ có ấn riêng. Vua trao quân sĩ cho một người dưới quyền mình có kèm theo ấn tướng quân và vị tướng này có toàn quyền chỉ huy quân đội. Chừng nào ấn còn trong tay vị tướng thì vị tướng đó còn toàn quyền chỉ huy với đội quân đó; khi bị thu ấn tức là không còn quyền chỉ huy. Trên nguyên tắc, quân sĩ luôn nghe theo người mang ấn. Chính vì vậy trong thời [[Hán Sở tranh hùng]], khi [[Lưu Bang]] bị [[Hạng Vũ]] đánh bại ở Thành Cao, phải bỏ trốn đến Tu Vũ với hai tướng dưới quyền là [[Hàn Tín]] và [[Trương Nhĩ]]. Vì sợ Hàn Tín không nghe mình nên Lưu Bang đã phải nhân lúc Hàn Tín ngủ mà lấy trộm ấn tướng quân để ra lệnh cho quân sĩ. Hàn Tín và Trương Nhĩ tỉnh dậy mới biết Lưu Bang đã thay đổi hết nhân sự mà mình sắp đặt. Sự việc đó được sử sách gọi là “Lưu Bang cướp quân của Hàn Tín”, hành động tượng trưng là việc cướp ấn tướng.
Việc dùng ấn làm bằng chứng bổ nhiệm quan lại thực hiện từ thời [[Đông Chu]], gọi là ''
==Nguồn gốc ngọc tỷ truyền quốc==
Khi [[Tần Thủy Hoàng]] diệt được 6 nước, thống nhất toàn bộ Trung Quốc (221 TCN), ông bắt đầu đặt ra quy định chặt chẽ về việc chế tạo, danh xưng, và sử dụng của ấn.
Tần Thủy Hoàng
Theo quy định của Tần Thủy Hoàng, ấn của quan lại (văn, võ) thì được chế bằng đồng.
Sau khi [[Tần Thủy Hoàng]] thống nhất [[Trung Quốc]], làm chủ một lãnh thổ rộng chưa từng có trong các triều đại trước đó (Hạ, Thương, Chu). Để chứng tỏ quyền uy tối cao của mình, ông ra lệnh cho người thợ ngọc là Tôn Thọ dùng một loại ngọc quý nổi danh đương thời là loại ''ngọc họ Hòa'', để tạo cho ông một "ngọc
Ngọc họ Hòa là báu vật truyền từ thời [[Xuân Thu]] ở [[nước Sở]]. Đến khi vua Tần diệt nước Sở (223 TCN) thì nắm được [[Ngọc bích họ Hòa|ngọc họ Hòa]]. Tôn Thọ chế ra
:受 命 于 天 既 壽 永 昌 (Phiên âm: ''Thụ mệnh vu thiên, ký thọ vĩnh xương'')
Dòng 33:
[[Nhà Tần]] truyền đến Tử Anh thì diệt vong. Theo ''Sử ký'', gian thần [[Triệu Cao]] sau khi giết [[Tần Nhị Thế]] từng định mang ngọc tỷ để làm vua nhưng không được quần thần tin phục nên phải lập Tử Anh lên ngôi. Tử Anh giết được Triệu Cao lúc cơ nghiệp nhà Tần đã không thể cứu vãn.
Tháng 10 năm [[206 TCN]], khi [[Lưu Bang]] tiến quân vào Hàm Dương. Tử Anh dùng dây đeo ấn của mình buộc vào cổ, niêm phong ngọc
Năm 8, Hán Đế là [[Nhũ Tử Anh]] bị ngoại thích [[Vương Mãng]] cướp ngôi. Vương Mãng sai em là An Dương Hầu Vương Thuấn vào trong hậu cung ép Thái Hoàng Thái Hậu [[Vương Chính Quân]], mẹ của [[Hán Thành Đế]] và là cô ruột của Vương Mãng, trao Ngọc tỷ truyền quốc cho mình, nhưng Vương Chính Quân từ chối, mắng anh em họ Vương rồi cầm ngọc
Sau Vương Mãng sai người dùng vàng để khảm lại chỗ sứt đó.
Dòng 54:
Viên Thuật bị [[Tào Tháo]] và [[Lã Bố]] đánh bại. Năm 199, Thuật ốm chết. Thủ hạ của Thuật là Từ Lục đem ngọc tỷ truyền quốc dâng cho Tào Tháo - người đang nắm [[Hán Hiến Đế]] sau khi Đổng Trác bị giết.
Tào Tháo tuy nắm được ngọc
Năm 265, [[Tư Mã Viêm]] ép vua Nguỵ là Tào Hoán phải nhường ngôi, lập ra [[nhà Tấn]], quốc ngọc
===Rời khỏi tay người Hán===
Nhà Tây Tấn tồn tại 52 năm thì bị diệt vong (316), phải chạy xuống Giang Nam, gọi là [[Đông Tấn]]. Lưu Thông nước [[Hán Triệu]] của người [[Hung Nô]] diệt Tây Tấn, nắm được ngọc tỷ. Sau đó [[Hậu Triệu]] của người Yết diệt Hán Triệu, ngọc tỷ thuộc về Hậu Triệu của [[Thạch Lặc]].
Năm 352, nước [[Nhiễm Ngụy]] diệt Hậu Triệu, ngọc tỷ lại vào tay vua nước này là [[Nhiễm Mẫn]] (người Hán). Nhưng ngay năm đó Mẫn đi đánh [[Tiền Yên]] bị tử trận, Thái thú Bộc Dương của Nhiễm Ngụy là Đái Thi đem truyền quốc ngọc
Năm 420, [[Lưu Dụ]] cướp ngôi nhà Đông Tấn, chiếm được ngọc tỷ, lập ra nhà [[Lưu Tống]]. Từ đó ngọc tỷ truyền quốc truyền qua các triều đại Nam triều thời [[Nam Bắc triều (Trung Quốc)|Nam Bắc triều]] là Lưu Tống, Nam Tề, Lương, Trần.
Năm 589, [[nhà Trần (Trung Quốc)|nhà Trần]] bị [[nhà Tùy]] ở trung nguyên tiêu diệt, ngọc
Năm 617, Tùy Dạng Đế bị Vu Văn Hóa Cập phát động chính biến giết và chiếm được ngọc
Năm 621, Đậu Kiến Đức bị nhà Đường đánh bại, bị bắt giết ở [[Tràng An]], người vợ đem ngọc
Năm 907, [[Chu Ôn]] cướp ngôi nhà Đường lập ra [[nhà Hậu Lương]], ngọc
Qua thời [[Ngũ đại Thập quốc]] tới [[nhà Tống]] kế tục, ngọc tỷ thuộc về nhà Tống. Năm 1127, hai vua Tống Huy Tông và Tống Khâm Tông bị quân Kim (người [[Nữ Chân]]) bắt đưa về [[Bắc Kinh]], ngọc tỷ rơi vào tay [[nhà Kim]]. [[Nhà Nam Tống]] của Triệu Cấu không có ngọc tỷ truyền quốc.
|