Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nhà Minh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
gif -> png
SLYDS (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 66:
1457-1464 {{smaller|(lần 2)}}|leader4=[[Minh Vũ Tông|Vũ Tông]]|leader5=[[Minh Thế Tông|Thế Tông]]|year_leader4=1606-1621|year_leader5=1621-1667|year_leader6=1572-1620|leader6=[[Minh Thần Tông|Thần Tông]]|leader7=[[Minh Tư Tông|Tư Tông]]|year_leader7=1627-1644}}
{{Lịch sử Trung Quốc}}
'''Nhà Minh''' ([[chữ Hán]]: 明朝, [[Hán Việt]]: ''Minh triều''; [[23 tháng 1]] năm [[1368]] - [[25 tháng 4]] năm [[1644]] {{NoteTag|giới sử học thông thường lấy năm 1644 là năm triều Minh vong quốc, Nam Minh đến năm 1662 mới diệt vong, Minh Trịnh diệt vong vào năm 1683.}}) là triều đại cuối cùng do người Hán kiến lập trong [[lịch sử Trung Quốc]]. Năm [[1368]], [[Chu Nguyên Chương]] sau khi tiêu diệt các thế lực quần hùng, tại phủ Ứng Thiên đăng cơ, quốc hiệu '''Đại Minh'''<ref name="国号">明[[朱國禎]]《[[湧幢小品]]》卷二「國號」條:“[[國號]]上加大字,始於[[元朝|胡元]],我朝因之。……其言[[漢朝|大漢]]、[[唐朝|大唐]]、[[宋朝|大宋]]者,乃臣子及外夷尊稱之詞。”</ref>, do [[hoàng thất]] [[họ Chu]], nên còn được gọi là '''Chu Minh'''<ref name="明太祖的開國規模" />. Đầu thời kiến quốc, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương định đô tại phủ Ứng Thiên (nay là [[Nam Kinh]]), đến năm Vĩnh Lạc thứ 19 (1421), [[Minh Thành Tổ]] Chu Đệ dời đô đến phủ Thuận Thiên (nay là [[Bắc Kinh]]), kinh sư cũ đổi thành [[Nam Kinh]]<ref name="明太祖的開國規模" />.{{Contains Chinese text}}Thời kỳ đầu triều Minh, qua chính sách nghỉ ngơi lại sức của Chu Nguyên Chương, quốc lực triều Minh khôi phục nhanh chóng, sử xưng Hồng Vũ chi trị<ref name="简介">{{Chú thích web|tiêu đề=明朝|url=http://www.ccnt.com.cn/china/history/history/ming/ming.htm|nhà xuất bản=中华文化信息网|ngày truy cập = ngày 13 tháng 2 năm 2014 |ngôn ngữ=中文}}</ref>. Đến thời kỳ Minh Thành Tổ Chu Đệ, quốc thế đạt đỉnh, những năm Vĩnh Lạc khoa trương lãnh thổ, còn phái khiển [[Trịnh Hòa]] bảy lần hạ Tây Dương, học giả hiện đại gọi là Vĩnh Lạc thịnh thế. Sau đó, thời kỳ [[Minh Nhân Tông|Nhân Tông]] và [[Minh Tuyên Tông|Tuyên Tông]] cũng là thời hưng thịnh, sử xưng Nhân Tuyên chi trị. Tuy nhiên, thời kỳ [[Minh Anh Tông|Anh Tông]] và [[Minh Đại Tông|Cảnh Thái Đếđế]], trải qua [[sự biến Thổ Mộc bảo]], quốc lực trung suy<ref name="简介"/>. Sau khi [[Minh Thế Tông|Thế Tông]] đăng cơ, phát sinh tranh chấp [[Đại lễ nghị]], sau khi thanh trừ thế lực hoạn quan và quyền thần, hoàng đế tổng quản triều cương, thực hành Gia Tĩnh tân chính, song sau này không quan tâm triều chính. Sau khi Minh Thế Tông từ trần, trải qua Long Khánh tân chính và Vạn Lịch trung hưng, quốc lực được khôi phục. Trung kỳ thời [[Minh Thần Tông|Thần Tông]], hoàng đế dần lơ đãng triều chính, sử xưng Vạn Lịch đãi chính, bắt đầu chính trị hỗn loạn thời vãn Minh. Thời [[Minh Hi Tông|Hi Tông]], đám hoạn quan làm loạn triều cương, sau khi [[Minh Tư Tông|Tư Tông]] kế vị thì bị diệt trừ. Tuy nhiên, do Tư Tông có quyết sách sai lầm, cùng với nội ưu ngoại hoạn, triều Minh cuối cùng mất vào tay [[Lý Tự Thành]] vào năm 1644. Sau đó, chính quyền Nam Minh rồi Minh Trịnh tiếp tục tồn tại trong mấy thập niên, kết thúc khi [[triều Thanh]] chiếm lĩnh Đài Loan.
 
Lãnh thổ triều Minh bao quát khu vực phía nam Vạn Lý Trườngtrường Thànhthành và tỉnh [[Liêu Ninh]] hiện nay. Trong những năm đầu, quyền tông chủ của nhà Minh mở rộng đến [[biển Nhật Bản]], [[Dãy núi Stanovoy|Ngoại Hưng An Lĩnh]] và lưu vực [[sông Amur|Hắc Long Giang]], sau đó suy giảm còn khu vực [[Liêu Hà]]. Triều Minh từng đặt cơ cấu ki mi tại Đông Bắc Trung Quốc ngày nay, đông bộ [[Tân Cương]] và [[Tây Tạng]].<ref>《明史·志第十六》:“计明初封略,东起朝鲜,西据吐蕃,南包安南,北距大碛,东西一万一千七百五十里,南北一万零九百四里。自成祖弃大宁,徙东胜,宣宗迁开平於独石,世宗时复弃哈密、河套,则东起辽海,西至嘉峪,南至琼、崖,北抵云、朔,东西万余里,南北万里。其声教所讫,岁时纳贽,而非命吏置籍,侯尉羁属者,不在此数。呜呼盛矣!“</ref> Tuy nhiên, tồn tại tranh nghị lớn về vấn đề triều Minh thực tế thống trị Tây Tạng. Thời kỳ Minh Thành Tổ, triều Minh từng chinh phục và thống trị An Nam (nay là miền bắc Việt Nam) trong một thời gian ngắn. Căn cứ theo "Minh thực lục", nhân khẩu triều Minh đạt đỉnh vào năm Thành Hóa thứ 15mười lăm (1479) với hơn 70 triệu người<ref>《明宪宗实录》:是岁天下户九百二十一万六百九十户,口七千一百八十五万一百三十二口。</ref>, song có nhiều học giả cho rằng đương thời tồn tại giấu giếm hộ khẩu với số lượng lớn, do đó nhận định đỉnh cao nhân khẩu thực tế là trên 100 triệu<ref>[http://www.saohua.com/shuku/History/06%E3%80%8A%E6%AD%A3%E8%AF%B4%E6%98%8E%E6%9C%9D%E4%B8%89%E7%99%BE%E5%B9%B4%E3%80%8B%E5%AD%99%E6%99%AF%E5%B3%B0-20%E6%9D%8E%E9%87%91%E7%8E%89-20%E8%91%97/%E6%AD%A3%E8%AF%B4%E6%98%8E%E6%9C%9D%E4%B8%89%E7%99%BE%E5%B9%B4101.htm 《正说明朝三百年》孙景峰李金玉著]</ref>. Thời Minh, thủ công nghiệp và kinh tế thương phẩm phồn vinh, xuất hiện tập trấn thương nghiệp và manh nha tư bản chủ nghĩa, văn hóa nghệ thuật hiện ra xu thế thế tục hóa<ref>{{chú thích sách|author=张宏杰|title=《大明王朝的七张面孔》|year=2013|publisher=天津人民出版社|location=天津|ISBN=9787201080949}}</ref>.
 
== Lịch sử ==
Dòng 76:
Năm 1356, Chu Nguyên Chương suất binh chiếm lĩnh [[Kim Lăng]] (nay là [[Nam Kinh]], [[Giang Tô]]), đổi thành Ứng Thiên phủ, đồng thời chiếm cứ một số địa điểm quân sự trọng yếu nằm quanh đó. Chu Nguyên Chương chấp thuận kiến nghị "cao trúc tường, quảng tích lương, hoãn xưng vương" của mưu sĩ Lý Thiện Trường, trải qua vài năm nỗ lực, thực lực quân sự và kinh tế nhanh chóng lớn mạnh. Năm 1360, Chu Nguyên Chương và một thủ lĩnh khởi nghĩa khác là [[Trần Hữu Lượng]] tiến hành giao chiến tại Long Loan thuộc tây bắc Tập Khánh, thế lực Trần Hữu Lượng đại bại và phải đào thoát đến Giang Châu (nay thuộc Cửu Giang, Giang Tây). Năm 1363, thông qua [[trận hồ Bà Dương|Thủy chiến tại hồ Bà Dương]], thế lực Trần Hữu Lượng về cơ bản bị tiêu diệt. Năm 1367, Chu Nguyên Chương tự xưng Ngô Vương, suất quân chiếm lĩnh Bình Giang (nay là [[Tô Châu]], Giang Tô), diệt một thủ lĩnh khởi nghĩa lớn mạnh khác là [[Trương Sĩ Thành]]. Cùng năm, Chu Nguyên Chương tiêu diệt [[Phương Quốc Trân]] cát cứ tại duyên hải [[Chiết Giang]]<ref name="建國與統一"/>.
 
Tháng 1 năm 01.1368, Chu Nguyên Chương xưng đế tại Nam Kinh, tức Minh Thái Tổ, niên hiệu Hồng Vũ, triều Minh được kiến lập. Sau đó, thừa cơ triều đình Nguyên có xung đột nội bộ, quân Minh tiến hành Bắc phạt và Tây chinh, trong cùng năm công chiếm Đại Đô (nay là Bắc Kinh) của Nguyên, triều Nguyên triệt thoát khỏi Trung Nguyên, sử xưng [[Bắc Nguyên]]. Sau đó, quân Minh tiêu diệt thế lực [[Minh Ngọc Trân]] tại [[Tứ Xuyên]] vào năm 1371, đến năm 1381 thì tiêu diệt [[Basalawarmi|Lương vương]] của Nguyên vẫn chiếm cứ [[Vân Nam]]. Năm 1387, nhà Minh xuất quân thu phục [[Liêu Đông]], đánh bại [[Ngạch Cáp Xuất]]. Cuối cùng, đến năm 1388, quân Minh xâm nhập Mạc Bắc (phía bắc [[sa mạc Gobi]]) tấn công và đánh bại Bắc Nguyên. Trung Quốc đến đây ổn định<ref name="建國與統一"/>.
 
=== Hoàng quyền tập trung và Kiến Văn tước phiên ===
[[Tập tin:Hongwu1.jpg|thumb|left|150px|[[Chu Nguyên Chương]] lật đổ triều Nguyên, kiến lập triều Minh.|thế=Chu Nguyên Chương lật đổ triều Nguyên, kiến lập triều Minh]]
{{Bài chính|Bốn vụ án thời Minh sơ|Kiến Văn cải chế}}
Sau khi bình định thiên hạ, Minh Thái Tổ đại phong công thần, song do tính cách đa nghi nên ông có nghi kị với những công thần này. Minh Thái Tổ dựa vào đại án [[Hồ Duy Dung]] và [[Lam Ngọc]], gần như đem toàn bộ công thần diệt trừ<ref name="洪武專政">《明史:一個多重性格的時代》〈第一篇 第二章 開國制度與政治整肅〉. 第20頁-第45頁.</ref>. Thừa tướng Hồ Duy Dung rất được Chu Nguyên Chương sủng tín, song ngày càng hống hách, tấu chương đại sự trong triều trước tiên phải qua tay ông. Năm 1380, Minh Thái Tổ lấy tội danh chuyên quyền làm càn để giết Hồ Duy Dung cùng những người khác như Ngự sử đại phu Trần Ninh. Năm 1390, có người tố cáo [[Lý Thiện Trường]] và Hồ Duy Dung có quan hệ mật thiết, Lý Thiện Trường do đó bị ban chết. Tổng cộng, số người liên lụy là hơn ba vạn người, sử xưng "[[Hồ Duy Dung án]]"<ref name="洪武專政"/>. Sau đó, Minh Thái Tổ lấy tội danh ngông cuồng hống hách để giết Đại tướng quân Lam Ngọc, hơn một vạn năm nghìn15.000 người mất mạng trong tru di diệt tộc, sử xưng "[[Lam Ngọc án]]". Cùng với [[Không ấn án]] và [[Quách Hoài án]], gọi chung là [[Minh sơ tứ đại án]]. Đến lúc này, ngoại trừ [[Thang Hòa]] và [[Cảnh Bỉnh Văn]], gần như toàn bộ công thần đã bị giết. Minh Thái Tổ thông qua một loạt phương thức như đả kích công thần, cho đặc vụ đi giám thị mà tăng cường hoàng quyền, khiến trình độ chuyên chế của hoàng đế triều Minh vượt trên các triều đại trước đó tại Trung Quốc<ref name="洪武專政"/>.
 
Đầu thời gian kiến quốc, có bộ phận địa chủ và văn nhân không muốn làm quan cống hiến cho triều đình mới, do đó chọn các cách thức như tự sát, tự hủy hoại thân thể, đi lên Mạc Bắc, ẩn cư thâm sơn, hay chém ngón tay, thề không xuất sĩ. Do đó Chu Nguyên Chương thiết lập hình phạt mới, tuyên cáo rằng các sĩ đại phu không phục vụ triều đình là phạm tội, sát hại nhiều học giả không muốn phụng sự triều Minh và đang làm quan cho tân triều, khiến cho các sĩ đại phu có tài năng còn lại rất ít<ref>《中國通史》第九卷,取士与文字狱</ref><ref>《山西通志卷.卷一百二十二.人物二十二》</ref>. Minh Thái Tổ sau khi tức vị một mặt giảm nhẹ gánh nặng cho nông dân, khôi phục sản xuất kinh tế, cải cách lại chính trị từ thời Nguyên, trừng trị tham quan, kinh tế xã hội được khôi phục và phát triển, sử xưng [[Hồng Vũ chi trị]].
 
Minh Thái Tổ phân phong cho các hoàng tử làm vương, để tăng cường biên phòng, che chắn cho hoàng thất. Trong đó, các phiên vương tại phương bắc có thế lực khá mạnh, lớn nhất là thế lực của Tần vương [[Chu Sảng]], Tấn vương [[Chu Cương]] và Yên vương [[Chu Lệ|Chu Đệ]]. Nhằm đề phòng trong triều đình có gian thần làm càn, Minh Thái Tổ quy định chư vương có thể dâng thư cho trung ương tróc nã gian thần, khi cần thiết nhận được mật chiếu của hoàng đế, lĩnh binh "tĩnh nạn" (ý là "bình định quốc nạn"). Đồng thời, nhằm đề phòng chư vương quá mạnh khó chế ngự, Minh Thái Tổ cũng đồng ý hoàng đế kế vị sau này khi cần thiết có thể hạ lệnh "tước phiên"<ref name="洪武專政"/>.
Dòng 89:
Năm 1398, Minh Thái Tổ từ trần, do Thái tử Chu Tiêu mất sớm nên Hoàng thái tôn [[Minh Huệ Đế|Chu Doãn Văn]] tức vị, niên hiệu Kiến Văn, tức Minh Huệ Tông. Nhằm củng cố hoàng quyền, Minh Huệ Tông cùng với các đại thần thân tín như [[Tề Thái]], [[Hoàng Tử Trừng]] mật mưu tước phiên. Chu vương Chu Túc, Đại vương Chu Quế, Tề vương Chu Phù, hay Tương vương Chu Bách trước sau bị phế trừ làm thứ nhân, hoặc bị giết. Đồng thời, Minh Huệ Tông lấy danh nghĩa biên phòng để điều động tinh binh của Yên vương đi, chuẩn bị tước trừ Yên vương. Kết quả là Yên vương Chu Đệ theo kiến nghị của Diêu Quảng Hiếu lấy danh nghĩa "thanh quân trắc, tĩnh nội nạn" để khởi binh, cuối cùng nam hạ chiếm lĩnh kinh sư, đó là [[Tĩnh Nan chi biến]]. Chu Đệ tức vị, tức Minh Thành Tổ, niên hiệu Vĩnh Lạc. Minh Huệ Tông không rõ tung tích giữa đám cháy lớn trong cung thành<ref name="永樂與仁宣之治">《明史:一個多重性格的時代》〈第一篇 第三章 從創業到守成的轉變〉. 第46頁-第65頁.</ref>.
 
=== Vĩnh Lạc thịnh thế và Nhân-Tuyên chi trị ===
[[Tập tin:Anonymous-Ming Chengzu.jpg|thumb|left|150px|Minh Thành Tổ [[Minh Thành Tổ|Chu Đệ]] phát động Tĩnh Nan chi dịch đoạt vị, đồng thời khai sáng Vĩnh Lạc thịnh thế.]]
Sau Hồng Vũ chi trị, Vĩnh Lạc thịnh thế thời Thành Tổ và Nhân-Tuyên chi trị thời Nhân Tông và Minh Tông là một ttrong các thời kỳ hưng thịnh của triều Minh. Thời kỳ Minh Thành Tổ, quân sự hưng thịnh, trước tiên [[Chiến tranh Minh - Đại Ngu|tiến công An Nam]], [[Bắc thuộc lần 4|đưa An Nam vào bản đồ]] triều Minh, thiết lập Giao Chỉ bố chính ty. Sau đó, Minh Thành Tổ năm lần tự dẫn quân vào Mạc Bắc tiến công Thát Đát và Ngõa Lạt (hai thế lực Mông Cổ sau khi Bắc Nguyên phân liệt). Minh Thành Tổ sách phong Ngõa Lạt tam vương, khiến họ đối lập với Thát Đát, chờ đến sau khi Ngõa Lạt hưng thịnh lại trợ giúp Thát Đát thảo phạt Ngõa Lạt, không để cho bên nào chiếm ưu thế<ref name="制度的更張與勢力的發揚"/>. Đồng thời, Minh Thành Tổ loại bỏ Đại Ninh đô ty, đem Ninh vương [[Chu Quyền]] nội thiên Nam Xương, trao cho ba vệ sở Ngột Lương Cáp Mông Cổ là Đóa Nhan, Thái Ninh và Phúc Dư quyền tự trị, song không chấp thuận cho người tam vệ Mông Cổ này dời về phía nam đến khu vực Đại Ninh chăn thả. Minh Thành Tổ tiến hành trấn áp Ngột Lương Cáp Mông Cổ vào năm 1406 và 1422, nhằm duy trì ổn định trong khu vực<ref>蔡石山著,江政宽译,《永乐大帝:一个中国帝王的精神肖像》,中华书局,2009年11月,ISBN 978-7-101-06977-8,第八章、永乐和蒙古人,第145-146页</ref>. Nhằm an phủ các bộ lạc [[Nữ Chân]] ở phía đông bắc, Minh Thành Tổ đặt vệ sở tại [[Hải Tây Nữ Chân]] (thượng du sông [[Tùng Hoa]]) và [[Kiến Châu Nữ Chân]] (giữa sông Tùng Hoa, [[sông Mẫu Đơn]]) đã quy phụ, đồng thời phái [[Diệc Thất Cáp]] an phủ [[Dã Nhân Nữ Chân]] tại hạ du [[sông Amur|Hắc Long Giang]]. Năm 1407, Diệc Thất Cáp tại khu vực Nô Nhi Can bờ đông hạ du Hắc Long Giang đặt Nô Nhi Can đô ty, khuếch trương cương vực phía đông Đại Minh. Năm 1413, Diệc Thất Cáp thị sát [[Sakhalin|đảo Khố Hiệt]] (Sakhalin), tuyên bố quyền tông chủ của triều Minh với khu vực này<ref name="《永寧寺記》">{{chú thích sách |title =《[[永寧寺記]]》|quote=永樂九年春特遣內官亦失哈等率官軍一千餘人、巨船二十五艘復至其國,開設[[奴兒干都司]]。昔遼、金疇民安故業,皆相慶曰:「□□今日復見而服矣!」遂上□朝□□□都司,而餘人上授以官爵印信,賜以衣服,賞以布、鈔,大賚而還。依土立興衛所,收集舊部人民,使之自相統屬。}}</ref>.
 
Minh Thành Tổ thay đổi sách lược ngoại giao bế quan tự thủ của Minh Thái Tổ, từ năm 1405 bắt đầu phái hoạn quan [[Trịnh Hòa]] hạ Tây Dương, giao thiệp với các quốc gia, tuyên thị uy đức và kiến lập thể chế triều cống, cũng có thuyết cho là nhằm bao vây ngăn chặn [[Nhà Timur|Đế quốc Timur]] tại Tây Á<ref name="制度的更張與勢力的發揚">{{chú thích sách|author=姜公韜|title=《中國通史·明清史》|chapter=第三章 制度的更張與勢力的發揚|page=第33頁-第49頁|isbn=9787510800627|publisher=九州出版社|date=2010-1}}</ref>. Trịnh Hòa hạ Tây Dương tổng cộng bảy7 lần, sáu6 lần trước trong những năm Vĩnh Lạc và do Minh Thành Tổ phái khiển, thuyền đội Trịnh Hòa ghi dấu trên khắp khu vực Đông Nam Á và Nam Á, còn lập căn cứ tại [[Melaka (bang)|Malacca]]. Quy mô của thuyền đội là chưa từng có trước đó, đi xa nhất đến khu vực [[Somali]] tại Đông Phi, khuếch đại sức ảnh hưởng của triều Minh đối với các quốc gia Đông Nam Á và ven Ấn Độ Dương.<ref name="永樂與仁宣之治"/>.
 
Trên phương diện văn trị, Minh Thành Tổ cho biên soạn "[[Vĩnh Lạc đại điển]]" có quy mô lớn, công trình này có 22.877 quyển, số chữ ước tính có hơn 370 triệu. Căn cứ theo ghi chép, thời Minh chỉ có Hiếu Tông và Thế Tông duyệt đại điển<ref>《清代輯佚研究》,第39頁</ref>. Ngoài ra, Minh Thành Tổ cũng không cho sao chép khắc in "Vĩnh Lạc đại điển", quyết định chỉ chế tác một phần bản sao, đến năm 1409 thì hoàn thành<ref>蔡石山著,江政宽译,《永乐大帝:一个中国帝王的精神肖像》,中华书局,2009年11月,ISBN 978-7-101-06977-8,第七章、文皇帝,第123-124页</ref>. Năm 1405, Minh Thành Tổ đổi Bắc Bình thành Bắc Kinh, gọi là 'hành tại', đồng thời thiết lập các nha môn như Bắc Bình quốcQuốc tử giám. Năm 1409, Minh Thành Tổ tuần thị Bắc Kinh, tại Bắc Kinh thiết lập lục bộ và đôĐô sát viện, đồng thời thiết lập lăng tẩm cho [[Nhân Hiếu Văn hoàng hậu|Từ hoàng hậu]] tại Bắc Kinh, hiển thị dấu hiệu thiên đô. Trải qua mười mấy năm quy hoạch, Bắc Kinh sơ bộ đạt được phồn vinh. Năm 1416, Minh Thành Tổ công bố ý kiến thiên đô, nhận được tán đồng, năm sau bắt đầu kiến thiết Bắc Kinh trên quy mô lớn. Năm 1420, tuyên cáo hoàn thành công trình, năm sau thiên đô. Vì trong những năm Vĩnh Lạc thiên hạ đại trị, đồng thời lại tận lực khai thác giao lưu hải ngoại, do vậy có học giả gọi giai đoạn này là Vĩnh Lạc thịnh thế. Tuy nhiên, Minh Thành Tổ cho giết nhiều người bất đồng quan điểm, như các cựu thần [[Hoàng Tử Trừng]], [[Tề Thái]] đều bị giết<ref>{{chú thích sách|author=时涛,宋岩|title=《图说中国历代君主帝王276——大明王朝简介》|year=2009|publisher=中国长安出版社|location=中国北京|isbn=9787510700873|language=中文}}</ref>.
 
Sau khi Minh Thành Tổ từ trầnbăng, trưởng tử là Chu Cao Sí tức vị, tức Minh Nhân Tông, niên hiệu Hồng Hi. Minh Nhân Tông tuổi đã cao, trị vì được gần một năm thì từ trầnmất. Ông thống trị theo thiên hướng bảo thủ, ủy nhiệm các hiền thần như "Tam Dương" ([[Dương Sĩ Kỳ]], [[Dương Vinh]], [[Dương Phổ (nhà Minh)|Dương Phổ]]) phụ tá triều chính, đình chỉ Trịnh Hòa hạ Tây Dương và chiến tranh đối ngoại để tích lũy dân lực, khích lệ sản xuất, độ lượng trong xét xử, nỗ lực thi hành tiết kiệm. Sau khi Minh Nhân Tông từ trần, trưởng tử là Chu Chiêm Cơ tức vị, là Minh Tuyên Tông, niên hiệu Tuyên Đức. Nhân Tông về cơ bản kế thừa phương châm của phụ thân, thực thi đức chính trị quốc, đồng thời cho tiến hành hạ Tây Dương lần cuối. Minh Tuyên Tông cực kỳ yêu thích mĩ thuật, có tác phẩm truyền thế. Tuy nhiên, trong thời gian ông chấp chính cũng có những điều tệ hại. Do Minh Tuyên Tông thích nuôi [[dế mèn]] (tên Hán cổ là "xúc chức"), nhiều quan lại do vậy tranh nhau nịnh hót, nên ông bị gọi là "Xúc Chức thiên tử". Đồng thời, Minh Tuyên Tông đả phá quy củ hoạn quan không được can chính do Thái Tổ truyền lại, một số thái giám như [[Vương Chấn (hoạn quan)|Vương Chấn]] bắt đầu can chính, là mầm họa của thái giám chuyên quyền thời Minh Anh Tông. Năm 1435, Minh Tuyên Tông từ trần, con là Chu Kỳ Trấn kế vị khi mới chín9 tuổi, tức Minh Anh Tông, niên hiệu Chính Thống<ref name="永樂與仁宣之治"/>.
 
=== Thổ Mộc chi biến và Hoằng Trị trung hưng===
[[Tập tin:Yu Qian.jpg|thumb|140px|[[Vu Khiêm]] đánh lui quân Ngõa Lạt của Dã Tiên, bảo vệ vững chắc Bắc Kinh.]]
Minh Anh Tông từ nhỏ đã sủng tín hoạn quan [[Vương Chấn (hoạn quan)|Vương Chấn]], khởi đầu hành vi hoạn quan chuyên quyền nghiêm trọng của triều Minh. Năm 1442, người hạn chế quyền thế của Vương Chấn là [[Thành Hiếu Chiêu hoàng hậu|Trương thái hoàng thái hậu]] từ trầnmất<ref>《明通鑑·卷22》:「(張太皇太后言)皇帝年幼,岂知此辈自古祸人家国?我听帝暨诸大臣留振,此后不得令干国事也。」</ref>, đương thời Minh Anh Tông gần 15 tuổi, Vương Chấn càng thêm chuyên quyền. Sau khi nguyên lão trọng thần "Tam Dương" từ trần, Vương Chấn chuyên quyền hống hách, triệt hạ biển sắt ghi sắc mệnh cấm chỉ hoạn quan can chính do Thái Tổ lưu lại, Minh Anh Tông đối với nhân vật này càng tín nhiệm hơn<ref>《明史紀事本末·卷29》:「朕自在春宫,至登大位,几二十年。尔夙夜在侧,寝食弗违,保护赞辅,克尽乃心,正言忠告,裨益实多。」</ref>.
 
Năm 1435, bộ lạc Ngõa Lạt của tộc Mông Cổ dần lớn mạnh, thường sinh sự tại khu vực biên cảnh của triều Minh. Năm 1449, thủ lĩnh Ngõa Lạt là [[Dã Tiên]] suất quân namNam hạ phạt Minh. Vương Chấn khuyến khích khiến Minh Anh Tông lĩnh 50 vạn binh sĩ ngự giá thân chinh. Sau khi đại quân rời khỏi kinh thành, binh sĩ thiếu lương kiệt sức. Đầu tháng tám8, đại quân mới đến Đại Đồng. Vương Chấn được báo rằng các lộ quân tiền tuyến đều chiến bại, sợ không dám giao chiến, bèn ra lệnh triệt thoái toàn bộ binh lực. Quân Minh kéo về đến Thổ Mộc bảo (nay thuộc huyện [[Hoài Lai]], Hà Bắc) thì bị quân Ngõa Lạt đuổi kịp, binh sĩ tử thương quá nửa, đại thần tùy tòngtùng cũng có hơn 50 người trận vong. Minh Anh Tông đột vây bất thành và bị bắt, Tướngtướng quân Phàn Trung tức giận giết Vương Chấn<ref>《明史紀事本末·卷29·王振用事》:「(樊忠言)吾為天下誅此賊。」</ref>, sử xưng [[Sự biến Thổ Mộc bảo|Thổ Mộc bảo chi biến]], là một bước ngoặt chuyển từ thịnh sang suy của triều Minh.
 
Sau khi tin tức từ Thổ Mộc bảo truyền đến Bắc Kinh, triều đình hỗn loạn. Một số đại thần yêu cầu thiên đô đến Nam Kinh, Ứng Thiên phủ song bị Binh bộ thịThị lang [[Vu Khiêm]] bác bỏ. Cùng năm, đại thần tôn em của Anh Tông là Chu Kỳ Ngọc tức vị, tức Minh Cảnh Đế (hay [[Minh Đại Tông]]), niên hiệu Cảnh Thái. Vu Khiêm được thăng làm Binh bộ thươngThương thư, chỉnh đốn biên phòng tích cực chuẩn bị chiến tranh, đồng thời quyết định kiên quyết bảo vệ Bắc Kinh, các lộ quân cần vương từ các địa phương liên tiếp tiến đến. Tháng mười10 cùng năm, quân Ngõa Lạt đến sát bên thành Bắc Kinh. Vu Khiêm lãnh đạo các lộ quân Minh kháng cự, Dã Tiên suất quân triệt thoái<ref>《明史·卷170·于謙傳》:「臨陣將不顧軍先退者,斬其將;軍不顧將先退者,後隊斬前隊;敢違軍令者,格殺勿論。」</ref>. Triều Minh giành thắng lợi trong trận bảo vệ Bắc Kinh, Vu Khiêm phản bác các ý kiến khác, tăng cường củng cố quốc phòng, cự tuyệt cầu hòa, đến năm sau liên tiếp đánh lui quân Ngõa Lạt nhiều lần xâm phạm.
 
Dã Tiên nhận thấy giữ Minh Anh Tông đã thành vô nghĩa, vào năm 1450 cho phóng thích ông. Tuy nhiên, do vấn đề hoàng quyền nên Minh Đại Tông không muốn tiếp nhận Minh Anh Tông, ban đầu không muốn khiển sứ nghênh giá, rồi giam lỏng Minh Anh Tông trong Nam cung, đồng thời phế hoàng thái tử Chu Kiến Thâm (con của Minh Anh Tông), lập con mình là Chu Kiến Tế làm thái tử. Không lâu sau, Kiến Tế bệnh mất, Đại Tông không còn con trai, song do dự không muốn tái lập Chu Kiến Thâm làm thái tử; huynh đệ Anh Tông và Đại Tông do đó đối lập nghiêm trọng<ref>{{chú thích sách|author=沈一民|title=《盛世中国·明朝卷·土木之变》|year=2009|publisher=华艺出版社|isbn=9787802520509|coauthors=冯雪飞|language=中文}}</ref>.
 
[[Tập tin:Hongzhi.jpg|thumb|left|140px|Minh Hiếu Tông Chu Hữu Đường trung hưng triều Minh.]]
Năm 1457, đám [[Thạch Hanh]], [[Từ Hữu Trinh]] liên minh nhằm phục vị cho Minh Anh Tông, họ thừa cơ Minh Đại Tông mắc trọng bệnh mà phát động binh biến. Từ Hữu Trinh suất quân công nhập Tử Cấm Thànhthành, đám Thạch Hanh chiếm lĩnh Đông Hoa Mônmôn, lập Minh Anh Tông tại Phụng Thiên điện, cải nguyên Thiên Thuận. Họ giam giữ Minh Đại Tông, bắt giết Vu Khiêm và Đại học sĩ [[Vương Văn]], sử xưng [[Đoạt Môn chi biến]]. Do hai lần tức vị, Minh Anh Tông trở thành hoàng đế duy nhất trong số các hoàng đế Minh-Thanh cai trị Trung Nguyên sử dụng hai niên hiệu. Sau khi phục vị, Minh Anh Tông thi hành tân chính, phế trừ chế độ tuẫn tàngtáng từ thời Minh Thái Tổ. Sau đó, Minh Anh Tông cho lưu đày Từ Hữu Trinh do chính biến nội bộ, nhân [[biến Tào Thạch]] mà giết đám Thạch Hanh, [[Tào Cát Tường]]; đồng thời cho đám hiền thần Lý Hiền nắm quyền. Năm 1464, sau khi Minh Anh Tông từ trầnmất, con ông là Chu Kiến Thâm tức vị, tức [[Minh Hiến Tông]], niên hiệu Thành Hóa.
 
Để rửa oan cho Vu Khiêm, Minh Hiến Tông khôi phục đế hiệu cho Minh Đại Tông, xét lại án oan Đoạt Môn, khiến nhiều người hài lòng. Tuy nhiên, Minh Hiến Tông nói lắp, do vậy rất ít khi tiếp đại thần, suốt ngày say đắm với [[Vạn hoàng quý phi|Vạn quý phi]]<ref>查繼佐.《罪惟錄·列傳卷2·皇后列傳》皇太后周氏曰:「彼有何美,而承恩多?”明憲宗曰:“彼抚摩吾安之,不在貌也。”</ref>, sủng tín đám hoạn quan [[Uông Trực (hoạn quan)|Uông Trực]], [[Lương Phương]], những năm cuối còn yêu thích thuật thần tiên. Đến đây đám gian nịnh nắm quyền, Tây xưởngXưởng hoành hành, triều cương hủ bại, dân chúng khổ sở. Hoạn quan Uông Trực nhận được sủng tín của Minh Hiến Tông, ngông cuồng hống hách, thông qua Tây xưởngXưởng giết oan bừa bãi phổ thông dân chúng và quan viên. Không lâu sau, do dân chúng phẫn uất khởi nghĩa khắp nơi, Tây xưởngXưởng bị bãi, song Uông Trực vẫn nắm giữ đại quyền, đến năm 1482 mới bị giáng chức. Thời Thành Hóa có nhiều nhóm quyền lực: nữ sủng, ngoại thích, nịnh hạnh, gian hoạn, tăng đạo, kết thành bè đảng làm loạn triều chính<ref name="明朝中後期的政局">{{chú thích sách|author=姜公韜|title=《中國通史 明清史》|chapter=第四章 明朝中後期的政局|page=第51頁-第71頁|isbn=9787510800627|publisher=九州出版社|date=2010-1}}</ref>. Năm 1487, Minh Hiến Tông từ trần, con là Chu Hữu Đường kế vị, tức [[Minh Hiếu Tông]], niên hiệu Hoằng Trị.
 
Minh Hiếu Tông từ nhỏ xuất thân bần hàn, còn từng gặp nguy hiểm bị Vạn quý phi hại. Trong thời gian tại vị, ông tiến hành canh tân triều chính, khiến thói xấu từ thời Minh Anh Tông trở đi được loại trừ, được tán tụng là "Trung hưng chi lệnh chủ"<ref>夏燮.《明通鑑·卷40》。</ref>. Minh Hiếu Tông trước tiên đem toàn bộ đám quan lại gian nịnh và dư thừa từ thời Hiến Tông để lại loại bỏ hoặc bắt giữ trị tội. Đồng thời, Hiếu Tông tuyển chọn sử dụng người hiền tài, ủy nhiệm việc quan trọng cho người có tài<ref>《明史·卷304·懷恩傳》:「一时正人汇进,恩之力也。」</ref>. Minh Hiếu Tông chăm lo chính sự, mỗi ngày hai lần thị triều. Minh Hiếu Tông kiểm soát nghiêm ngặt hoạn quan, Cẩm y vệ và Đông xưởngXưởng cũng cẩn thận hành sự, dùng hình nhẹ bớt. Minh Hiếu Tông dốc sức thi hành tiết kiệm, không xây dựng công trình lớn, giảm miễn thuế phú. Bản thân Minh Hiếu Tông thi hành chế độ một vợ một chồng, ngoài [[Hiếu Thành Kính hoàng hậu|Trương hoàng hậu]] thì không có phi tần nào. Thời kỳ Hoằng Trị là thời kỳ tốt đẹp nhất từ trung kỳ triều Minh trở đi, Minh sử viết Minh Hiếu Tông "cung kiêm hữu chế, cần chính ái dân", được gọi là Hoằng Trị trung hưng<ref name="弘治正德">《明史:一個多重性格的時代》〈第二篇 第九章 從弘治中興到正德亂局 第三篇 第十二章 嘉靖初政與大禮紛爭〉. 第159頁-第171頁. 第211頁-第224頁</ref>. Tuy nhiên, vào trung hậu kỳ Minh Hiếu Tông không còn nghiêm túc lắng nghe can gián, đồng thời bắt đầu phung phí vô độ, khiến quốc gia bước vào tình cảnh khủng hoảng ngân khố, tệ chính vốn bị loại trừ vào sơ kỳ Hoằng Trị không những khôi phục toàn bộ mà còn trầm trọng hơn<ref>王其榘《明代內閣制度史》,中華書局,1989年</ref>. Năm 1505, Minh Hiếu Tông từ trầnbăng, con là Chu Hậu Chiếu tức vị, đó là [[Minh Vũ Tông]], niên hiệu Chính Đức.
 
=== Nội loạn và Bắc Lỗ Nam Oa===
[[Tập tin:The Great wall - by Hao Wei.jpg|nhỏ|180px|Minh Trường Thành giúp kháng cự Thát Đát, Ngõa Lạt tại phương bắc.]]
Đến thời Minh Vũ Tông, thế lực hoạn quan lại trỗi dậy, được quy là do Vũ Tông ham chơi mà lười chính sự. Tuy nhiên, bản thân họa này chưa uy hiếp đến hoàng quyền, tuy có [[Bát hổ]] như [[Lưu Cẩn]] làm càn, song cuối cùng không như tình hình hoạn quan chuyên quyền cuối thời [[Nhà Đường|Đường]], đám Lưu Cẩn cuối cùng vẫn bị Vũ Tông xử cực hình. Vũ Tông ham chơi, cuối cùng khiến dòng Hiếu Tông tuyệt tự<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=大太监刘瑾擅权|url=http://www.china.com.cn/aboutchina/zhuanti/lddw/2008-04/03/content_14208116.htm|nhà xuất bản=中国网|ngày truy cập = ngày 17 tháng 1 năm 2014 |ngôn ngữ=中文|ngày tháng = ngày 3 tháng 4 năm 2008}}</ref>, khiến thống hệ Đại Minh lần thứ hai có việc dòng thứ nhập thành dòng chính<ref name="弘治正德"/>. Minh Vũ Tông đắm chìm trong vui thú khiến cho trong thời Chính Đức nhiều lần phát sinh chiến sự, các sự kiện trọng đại như [[Đại Diên Hãn]] của Thát Đát đem quân xâm phạm, An Hóa vương [[Chu Trí Phiên]] tại Ninh Hạ mưu phản, khởi nghĩa Lưu Lục-Lưu Thất tại Sơn Đông, Ninh vương [[Chu Thần Hào]] tại Giang Tây mưu phản. Tuy nhiên, quân đội Đại Minh thời đó còn mạnh và có nhiều quan lại tài ba, tiêu biểu như [[Vương Dương Minh]], nên quân Mông Cổ và các nhóm nổi dậy đều bị đánh tan. Năm 1520, Minh Vũ Tông lấy cớ xuất chinh Giang Tây để xuống phương nam du ngoạn, trên đường về kinh thì bị rơi xuống nước khi đang đi thuyền nên nhiễm bệnh, sang năm 1521 thì từ trầnmất<ref name="弘治正德"/>.
 
Sau khi Minh Vũ Tông từ trần, cháu họ của Minh Hiếu Tông là Chu Hậu Thông kế thừa đại thống, đó là [[Minh Thế Tông]], niên hiệu Gia Tĩnh. Trong khoảng thời điểm đăng cơ, nhiều quyền thần như [[Dương Đình Hòa]], [[Mao Trừng]] buộc Minh Thế Tông tôn thân sinh phụ mẫu làm hoàng thúc phụ mẫu, khiến Minh Thế Tông phản cảm, đó là tranh chấp [[Đại lễ nghị]]. Cuối cùng, Minh Thế Tông tôn phụ mẫu làm hoàng đế và hoàng hậu, lập bài vị trong Thái Miếu trên Vũ Tông, ghi vào hoàng"Hoàng đế thực lục"<ref name="弘治正德"/>.
 
Sau năm 1534, Minh Thế Tông dù không thị triều song vẫn tường tận quốc sự, mọi sự lớn nhỏ vẫn do Minh Thế Tông quyết đoán. Minh Thế Tông sùng tín [[Đạo giáo]], tin dùng phương sĩ, trong cung ngày đêm cầu cúng. Ban đầu, ông đưa Đạo sĩ [[Thiệu Nguyên Tiết]] nhập kinh, phong làm chân nhân và lễLễ bộ thượngThượng thư. Sau khi Thiệu Nguyên Tiết từ trần, ông rất sủng Phương sĩ [[Đào Trọng Văn]]<ref name="弘治正德"/>. Tháng mười năm 10.1542, Càn Thanh cung phát sinh sự kiện hơn mười10 cung nữ như [[Dương Kim Anh]], và Ninh tần Vương thị thừa cơ Minh Thế Tông đang ngủ say mà mưu đồ bóp chết ông, song không thành công, tức [[Nhâm Dần cung biến]]. Sau sự kiện này, cho đến trước khi từ trần, Minh Thế Tông dời Đại Nội đến sống tại [[Trung Nam Hải|Tây Nội]]. Minh Thế Tông sủng tín quyền thần Nghiêm Tung, nhân vật này do đó bài xích người bất đồng quan điểm, kết đảng nhằm mưu cầu tư lợi. Con của Nghiêm Tung là [[Nghiêm Thế Phiền]] hiệp trợ phụ thân. Triều thần mặc dù không ngừng có người hạch hỏi Nghiêm Tung kết đảng mưu cầu tư lợi, song đều thất bại. Cuối thời Thế Tông, Nghiêm Tung do tuổi đã cao nên [[Từ Giai]] bắt đầu thay thế vị trí của Nghiêm Tung. Năm 1562, Từ Giai kích động ngôn quan luận tội Nghiêm Tung, Nghiêm Tung từ quan hồi hương. Năm 1565, Nghiêm Thế Phiền bị xử trảm vì tội thông Oa, Nghiêm Tung bị giáng làm thứ dân, hai2 năm sau bệnh mất<ref name="中興改革">《明史:一個多重性格的時代》〈第三篇 第十三章 世宗失道與隆萬改革 第十四章 北虜南倭問題及其解決方法〉. 第227頁-第271頁.</ref>.
 
Thời Gia Tĩnh, Đại Minh liên tiếp có ngoại hoạn. Tại phương bắc, Thát Đát thừa cơ triều Minh suy nhược mà chiếm cứ [[Hà Sáo]]. Năm 1550, thủ lĩnh Thát Đát là [[Yêm Đáp Hãn|Yêm Đáp]] xâm phạm [[Đại Đồng, Sơn Tây|Đại Đồng]], Tổngtổng binh Cừu Loan đem lượng lớn kim tiền mua chuộc Yêm Đáp để chuyển sang mục tiêu khác. Kết quả, Yêm Đáp chuyển sang đánh thẳng Bắc Kinh, sau khi cướp bóc quanh thành thì dời về phía tây, quân Minh chiến bại trong quá trình truy kích, đó là [[Canh Tuất chi biến]]. Do trong thời kỳ Minh Thế Tông, triều đình tuyên bố [[hải cấm]], [[Oa khấu]] có thành phần là lãng nhân Nhật Bản và hải tặc Trung Quốc hợp tác với cư dân duyên hải buôn lậu, trước sau tập kích quấy nhiễu Sơn Đông, Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông. Các tướng lĩnh như Chu Hoàn, Trương Kinh nhận lệnh của triều đình song không thể bình định Oa khấu. Sau đó, Binh bộ thượng thư [[Hồ Tông Hiến]] tạm thời giữ chức Chiết Giang tuần phủ kiêm Chiết Trực tổng đốc, toàn lực tiêu diệt Oa khấu, chiêu phủ thế lực mạnh nhất tại Chiết Giang là [[Uông Trực (hải tặc)|Uông Trực]]. [[Thích Kế Quang]] và [[Du Đại Du]] bình định Oa khấu tại các địa phương Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, tạo bối cảnh tốt cho [[Long Khánh khai quan]] về sau. Ngoài ra, người Bồ Đào Nha vào năm 1557 bắt đầu di dân đến Áo Môn, song đến khi triều Minh mất, người Bồ Đào Nha và Áo Môn vẫn thuộc quyền quản trị của huyện Hương Sơn thuộc Quảng Đông. Năm 1566, Minh Thế Tông từ trần, Hoànghoàng thái tử Chu Tái Hậu tức vị, tức [[Minh Mục Tông]], niên hiệu Long Khánh<ref name="中興改革"/>.
 
=== Cải cách trung hưng===
[[Tập tin:Zhangjuzheng.jpg|thumb|left|140px|[[Trương Cư Chính]] thi hành cải cách trong Vạn Lịch trung hưng.]]
Sau khi tức vị, Minh Mục Tông trước sau tín nhiệm trọng dụng các danh thần như [[Từ Giai]], [[Cao Củng]] và [[Trương Cư Chính]]. Năm 1567, cựu thần từ thời Minh Thế Tông là Từ Giai khích động triều quan buộc tội Cao Củng, buộc Cao Củng từ quan hồi hương. Cao Củng không cam tâm, năm sau khích động triều quan buộc tội Từ Giai, Từ Giai bị buộc chính thức thoái hưu. Chính vụ thực tế trong triều dần rơi vào tay Trương Cư Chính. Những năm cuối Long Khánh, Cao Củng hồi triều, nhậm chức đạiĐại học sĩ đứng đầu nội các. Tướng lĩnh triều Minh và thủ lĩnh Thát Đát là Yêm Đáp Hãn đạt thành hòa nghị, sử xưng [[Yêm Đáp phong cống]]. Về hàng hải, triều đình mở cửa mậu dịch dân gian, sử xưng [[Long Khánh khai quan]]. Do thi hành hai điều này cùng các cải cách khác, triều Minh bắt đầu tiến vào thời kỳ Trung hưngHưng, sử xưng [[Long Khánh tân chính]]. Năm 1572, Minh Mục Tông đột nhiên từ trần, Hoànghoàng thái tử Chu Dực Quân kế vị khi mới gần 9 tuổi, tức [[Minh Thần Tông]], niên hiệu Vạn Lịch.<ref name="中興改革"/>.
 
Do Minh Thần Tông còn nhỏ tuổi, [[Hiếu Định thái hậu|Lý thái hậu]] nhiếp chính. Cao Củng do đối kháng với hoạn quan [[Phùng Bảo]] vốn được Thái hậu tín nhiệm nên bị bãi quan, còn Trương Cư Chính được Phùng Bảo hết sức ủng hộ. Trương Cư Chính phụ chính mười10 năm, thi hành cải cách, trên phương diện nội chính đề xuất "tôn chủ quyền, khóa lại chức, hành thưởng phạt, nhất hiệu lệnh", thi hành "[[khảo thành pháp]]", cắt giảm triệt tiêu quan viên dư thừa trong cơ cấu chính phủ, chỉnh đốn việc truyền tin và tuyển chọn quan lại. Trên phương diện kinh tế, tiến hành đo đạc cụ thể ruộng đất toàn quốc, ức chế hào cường địa chủ, cải cách chế độ phú dịch, thi hành "[[nhất điều tiên pháp]]", giảm nhẹ gánh nặng của nông dân<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=张居正变法与万历怠政|url=http://news.ifeng.com/history/1/jishi/200812/1225_2663_939713.shtml|nhà xuất bản=凤凰网|ngày truy cập = ngày 17 tháng 1 năm 2014 |ngày tháng = ngày 25 tháng 12 năm 2008}}</ref>. Năm 1393, vào thời kỳ Minh Thái Tổ, đất ruộng canh tác trên toàn quốc có 3.660.007 khoảnh, đến năm 1502 thời kỳ Minh Hiếu Tông chỉ tăng lên 4.228.058 khoảnh. Trải qua Trương Cư Chính trị lý, đến năm 1581 đạt đến 7.003.976 khoảnh. Trên phương diện quân sự, tăng cường chỉnh đốn vũ bị, bình định rối loạn tại tây nam, cho danh tướng [[Thích Kế Quang]] bảo vệ Kế Châu-, trọng trấn cho Bắc Kinh, cho [[Lý Thành Lương]] an phủ các bộ lạc Nữ Chân, cho Vương Sùng Cổ, Phương Phùng Thì an phủ Thát Đát, các trọng thần khác như Lưu Hiển tại Tứ Xuyên, Ân Chính Mậu và Lang Vân Dực tại Lưỡng Quảng, Trương Giai Dận tại Chiết Giang,. Trương Cư Chính rất tín nhiệm bọn họ<ref name="明朝中後期的政局"/>., Trươngngoài Cư Chínhra còn cho [[Phan Quý Tuần]] trị lý Hoàng Hà, biến thủy hoạn thành thủy lợi. Đồng thời, Trương Cư Chính trừng trị nghiêm khắc tham quan ô lại, cắt bỏ người vô dụng. Trương Cư Chính chỉnh đốn triều chính, cải cách thể chế, sử xưng [[Vạn Lịch trung hưng]]<ref name="中興改革"/>.
 
Năm 1577, cha của Trương Cư Chính từ trần, theo lệ thường ông phải giải chức hồi hương chịu tang trong ba3 năm, tức 'đinh ưu', song vì sự nghiệp cải cách chưa thành nên không muốn thực hiện. Địch thủ chính trị của ông nhân đó mà làm lớn chuyện, đó là "Đoạt Tình chi tranh". Cuối cùng, được Minh Thần Tông và hai vị thái hậu ủng hộ, Trương Cư Chính được miễn chịu tang tại gia, tức Đoạt tình khởi phục, do đó cải cách của ông không bị gián đoạn. Tuy nhiên, điều này trở thành một cớ để địch thủ chính trị của ông lợi dụng. Đồng thời, Trương Cư Chính lợi dụng chức quyền của bản thân để tạo thuận lợi cho con mình vượt qua khoa cử tiến vào Hàn lâm viện. Sau khi Trương Cư Chính từ trầnmất, các địch thủ chính trị phản đối cải cách lập tức thanh toán. Một số người trong Trương phủ không kịp trốn bị giam bên trong, hơn chục người chết đói. Quan tước của Trương Cư Chính khi còn sống cũng bị tước<ref name="中興改革"/>.
 
=== Vạn Lịch đãi chính và đảng tranh===
[[Tập tin:明神宗像.jpg|thumb|160px|Minh Thần Tông là hoàng đế triều Minh tại vị trong thời gian dài nhất.]]
Thời gian đầu sau khi Trương Cư Chính từ trần, Minh Thần Tông vẫn có thể duy trì hứng thú với triều chính, song cùng với việc triều dã thanh toán thế lực của Trương Cư Chính, Minh Thần Tông bắt đầu ít thượng triều. Sau "Quốc bản chi tranh", ông thậm chí còn có thái độ đãi chính tiêu cực. Trong thời gian Minh Thần Tông tại vị, về đối nội có các sự kiện nghiêm trọng như "Đông Lâm đảng tranh", "Quốc bản chi tranh""Vạn Lịch đãi chính"; đối ngoại có các chiến dịch lớn như "Vạn Lịch tam đại chinh""Hậu Kim quật khởi". Triều đại Vạn Lịch là thời kỳ chuyển đổi từ thịnh sang suy của triều Minh<ref>{{chú thích sách|author=樊树志|title=《万历皇帝传》|year=樊树志|publisher=凤凰出版社(原江苏古籍出版社)|isbn=9787807297956|language=中文}}</ref>. "[[Quốc bản chi tranh]]" là một sự kiện chính trị trọng đại kéo dài suốt từ trung kỳ đến vãn kỳ thời gian Minh Thần Tông trị vì, chủ yếu là xung quanh tranh chấp kế thừa hoàng vị giữa Hoànghoàng trưởng tử [[Minh Quang Tông|Chu Thường Lạc]] và Phúc vương [[Chu Thường Tuân]] (con của Trịnh quý phi). Do [[Hiếu Đoan Hiển hoàng hậu|Vương hoàng hậu]] không có con trai, Minh Thần Tông đặc biệt yêu mến hoàng tử thứ ba là Chu Thường Tuân, không muốn lập hoàng tử thứ nhất là Chu Thường Lạc làm thái tử, quan viên trong triều do đó phân thành hai phái khác biệt. Đến năm 1601, dưới áp lực của [[Hiếu Định thái hậu|Hoànghoàng thái hậu]], Chu Thường Lạc mới được phong làm thái tử, còn Chu Thường Tuân được phong làm Phúc vương. Tuy nhiên, Phúc vương chậm rời kinh thành đi nhậm chức vị phiên vương. Đến khi phát sinh "[[Đĩnh kích án]]", dư luận bất lợi với Trịnh quý phi, Phúc vương mới rời kinh tới phiên, địa vị thái tử của Chu Thường Lạc nhờ vậy mà được vững chắc<ref name="萬歷"/>.
 
Do tranh chấp lập thái tử, Minh Thần Tông bất mãn cực độ đối với đại thần, năm 1587 bắt đầu lấy việc không thượng triều để trả đũa, chỉ xử lý một số sự kiện trọng yếu<ref>{{chú thích sách|title=《[[明实录]]·神宗实录》卷一|quote=上明习政事,乾纲独揽,予夺进退,莫可测识。晚颇厌言官,章奏概置不报。然每遇大事,未尝不折衷群议归之。圣裁中外,振耸四封。}}</ref>. Minh Thần Tông không thị triều vào ngày đầu năm, sáng sớm không thị triều, cả ngày đắm chìm trong tửu sắc, mỗi năm lại tiến hành tuyển mỹ nữ, thường thích xây cất, hay cho xây công trình quy mô lớn. Đại lý tự tảTả bình sự dâng sớ, nói Minh Thần Tông đắm chìm trong tửu, sắc, tài, khí, kết quả bị giáng làm dân. Trung hậu kỳ thời Minh Thần Tông, tình hình tài chính nguy nan<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=明代中后期的商业税收研究|nhà xuất bản=林枫|ngày tháng = ngày 12 tháng 8 năm 2009 |url=http://hxd.wenming.cn/kyjjcg/2009-08/12/content_39936.htm|ngày truy cập = ngày 20 tháng 6 năm 2011 |ngôn ngữ=zh}}</ref>, do đó Minh Thần Tông phái thái giám làm khoáng giám và thuế giám trên toàn quốc để tăng thêm ngân khố. Tuy nhiên, khoáng giám và thuế giám đại đa số lấy danh nghĩa để vơ vét tài sản dân gian, nhiễu loạn quốc gia. Do Minh Thần Tông không quản lý triều chính, hiện tượng khuyết quan viên rất nghiêm trọng. Năm 1602, Nam-Bắc lưỡng kinh tổng cộng khuyết ba3 thượngThượng thư, mười10 thịThị lang, các địa phương khuyết ba3 [[tuần phủ]], 66 bố chính sứ hay án sát sứ, 25 tri phủ. Bên trên Minh Thần Tông chán trường, bên dưới triều thần tranh chấp, triều đình Minh hoàn toàn bước vào trong tình trạng không hoạt động. Do vậy, Minh sử viết rằng có nhà bình luận nói triều Minh thực tế mất từ thời Thần Tông<ref name="萬歷"/>, bộ phận sử gia nhận định triều Minh từ đây bắt đầu hướng đến diệt vong<ref>{{chú thích sách|author=黃仁宇|title=《萬曆十五年》|publisher=生活·讀書·新知三聯書店}}</ref>.
 
Do triều chính hỗn loạn, một bộ phận quan lại cấp trung và thấp chịu bài xích về chính trị, liên tiếp yêu cầu cải cách chính trị, đồng thời nhấn mạnh tiêu chuẩn đạo đức. Năm 1593, [[Đông Lâm đảng]] hình thành, danh xưng bắt nguồn từ [[Đông Lâm thư viện]] do [[Cố Hiến Thành]] sáng lập. Chủ trì kinh sát là Tôn Lung, Lý Thế Đạt và Triệu Nam Tinh, lợi dụng kinh sát để giáng chức bãi quan các quan lại không hợp với tiêu chuẩn của họ và không thuộc Đông Lâm đảng. Trải qua nhiều lần kinh sát, nhiều đảng phản đối như Tuyên đảng, Côn đảng, Tề đảng, Chiết đảng đứng lên và xung đột với Đông Lâm đảng. Từ đó, họa bè phái không dẹp nổi, triều chính đình đốn nội loạn<ref>《[[明史]]·卷224·孫鑨傳》、《[[明史]]·卷243·趙南星傳》、文秉·《[[定陵註略]]·卷三·癸巳大計》</ref>. Sang thời Minh Hy Tông, phái hoạn quan chuyên quyền, Đông Lâm đảng chịu đả kích nghiêm trọng, đến đầu thời Minh Tư Tông mới lại được sử dụng<ref name="萬歷">{{chú thích sách|title=《明史:一個多重性格的時代》|chapter=第四篇 第十七章 神宗貪怠與東林會議|page=第327頁-第345頁}}</ref>.
 
Trên phương diện quân sự đối ngoại, "Vạn Lịch tam đại" chinh là nổi danh nhất, đó là [[Ninh Hạ chi dịch|"Ninh Hạ chi dịch"]] nhằm bình định [[Bột Bái]] người Mông Cổ làm phản, [[Chiến tranh Nhật Bản-Triều Tiên (1592-1598)|"Triều Tiên chi dịch"]] nhằm kháng kích chính quyền [[Gia tộc Toyotomi|Toyotomi]] (Phong Thần) Nhật Bản xâm nhập [[nhà Triều Tiên|vương triều Triều Tiên]], [[Bá Châu chi dịch|"Bá Châu chi dịch"]] nhằm binh định Thổ ty [[Dương Ứng Long]] làm phản, ba3 cuộc chiến trường kỳ này gần như đồng thời phát sinh, song tính chất không tương đồng. Triều Minh giành thắng lợi trong ba đại chiến này giúp củng cố biên cương, bảo hộ vương triều Triều Tiên, song làm tiêu hao lượng lớn nhân lực vật lực, là một trong các nguyên nhân trọng yếu khiến quốc khố trống rỗng, tài chính nguy khốn<ref>{{chú thích sách|title=《[[明史]]·卷350·陳增傳》|quote=寧夏用兵,費帑金二百餘萬。其冬,朝鮮用兵,首尾八年,費帑金七百餘萬。二十七年,播州用兵,又費帑金二三百萬。三大征踵接,國用大匱}}</ref><ref>{{chú thích sách|title=《[[明史]]·卷123·王德完傳》|quote=近歲寧夏用兵,費百八十餘萬;朝鮮之役,七百八十餘萬;播州之役,二百餘萬}}</ref>. Năm 1617, thủ lĩnh Hậu Kim là [[Nỗ Nhĩ Cáp Xích]] lấy [[thất đại hận|"Thất đại hận"]] làm cớ tiến hành phản Minh, hai2 năm sau đại thắng quân Minh trong [[trận Tát Nhĩ Hử]], triều Minh đến lúc này chọn sách lược phòng ngự làm chủ yếu để ứng phó với Hậu Kim<ref name="萬歷"/>.
 
Năm 1620, Minh Thần Tông từ trầnbăng<ref>{{chú thích sách|title=《明实录·神宗实录》卷之五百九十六,七月丙申条|quote=上疾大渐,召英国公张惟贤、大学士方从哲、吏部尚书周嘉谟、户部尚书李汝华、兵部尚书董嘉善、署刑部事摠督仓场尚书张问达、署工部事协理戎政尚书黄克缵、礼部右侍郎孙如游等入见于弘德殿。勉以用心办事,大小诸臣各致词问安。尚书周嘉谟仍以用人为请随赐。俞允诸臣叩头而出。上谕内阁:‘朕嗣祖宗大统历今四十八年,久因国事焦劳以致脾疾,遽不能起。有负先皇付托惟。皇太子青宫有年,实赖卿与司礼监协心辅佐。遵守祖制,保固皇图,卿功在社稷万世不泯。’是日,上崩。}}</ref>. Thái tử Chu Thường Lạc đăng cơ, tức [[Minh Quang Tông]], niên hiệu Thái Xương, tại vị chỉ được một1 tháng. Ông ban thưởng cho quân Minh tại tiền tuyến Liêu Đông, trọng dụng người thuộc Đông Lâm đảng khiến triều chính chuyển nguy thành an, đồng thời ông bãi trừ khoáng giám thuế sứ<ref name="天啟崇禎"/>. Sinh mẫu của Phúc vương là Trịnh quý phi nhằm lung lạc Minh Quang Tông nên tiến hiến tám vị mỹ nữ. Minh Quang Tông ham mê quá độ nên không lâu thì đổ bệnh, Tháithái giám Thôi Văn Thăng dâng thuốc xổ khiến ông đi ngoài quá độ, lại do sử dụng 'hồng hoàn' của Lý Khả Chước mà đột tử, sử xưng "[[Hồng hoàn án|"Hồng hoàn án"]]". Sau khi Minh Quang Tông từ trần, sủng phi của ông là [[Lý khang phi|Lý Tuyền Thị]] muốn ở lại Càn Thanh cung, nhằm đề phòng bà can dự triều chính nên triều thần buộc bà đến Uyết Loan cung thuộc Nhân Thọ điện<ref>{{chú thích sách|title=《[[明季北略]]》(卷2)|quote=予按郑贵妃慧人也,神宗宠之,生福王;李选侍郑党也,光宗宠之。当光宗登极,郑、李进美人等,遂致不起。光宗崩,李选侍犹居干清宫,欲与熹宗同居,邀封后,垂帘称制;而杨、左等以选侍素无德,又非生母、嫡母与养母,恐有武氏之祸,必欲令选侍出干清宫,不与熹宗同居,竖议甚正,未免稍激,遂为群小所忌,而祸自此始矣。}}</ref>, tức [[Di cung án|"Di cung án"]]. Hoàng trưởng tử Chu Do Hiệu cuối cùng kế vị, tức [[Minh Hi Tông]], niên hiệu Thiên Khải. "Đĩnh kích án", "Hồng hoàn án" và "Di cung án" gọi chung là "Minh mạt tam đại án", là kế tục của "Quốc bản chi tranh", khiến đấu tranh chính trị trong triều đình Minh càng thêm kịch liệt, cũng đánh dấu bắt đầu thời kỳ Minh mạt suy vong<ref name="天啟崇禎">{{chú thích sách|title=《明史:一個多重性格的時代》|chapter=第四篇 第十九章 天啟崇禎年間的政治亂象 第二十章 內外威脅與明朝滅亡|page=第363頁-第404頁}}</ref>.
 
=== Nguy cơ kinh tế, các mối nguy từ bên trong lẫn bên ngoài ===
Trong thời gian Minh Hi Tông tại vị, chính trị càng hủ bại đen tối. Minh Hi Tông do mất mẹ từ nhỏ nên có cảm tình đặc biệt với nhũ mẫu [[Khách thị]]. Khách thị và hoạn quan [[Ngụy Trung Hiền]] hợp tác với nhau làm càn. Thời kỳ ban đầu, Minh Hi Tông sử dụng lượng lớn người của Đông Lâm đảng, kết quả khiến Đông Lâm đảng và các đảng khác đấu tranh không ngừng, Minh Hi Tông do đó mất kiên nhẫn với triều chính, Ngụy Trung Hiền nhờ cơ hội này mà can dự chính trị, tập kết thế lực các đảng Tề-Sở-Chiết, hiệu là [[Yêm đảng]]. Năm 1624, Yêm đảng khống chế nội các, Ngụy Trung Hiền càng thêm ngông cuồng, móng vuốt của ông ta trải khắp trung ương và địa phương. Khi quyền thế tối thịnh, dưỡng tử của Ngụy Trung Hiền có thể thay thế hoàng đế tế Thái Miếu. Toàn quốc đều có miếu thờ sống Ngụy Trung Hiền, còn có học giả Quốc tử giám thuộc Yêm đảng đề xuất Ngụy Trung Hiền sánh ngang [[Khổng Tử]], cha của Ngụy Trung Hiền sánh ngang Khải Thánh công<ref>{{chú thích sách|author=韩大成|title=《魏忠贤传》|year=1997|publisher=人民出版社|location=北京|isbn=9787010022987|language=中文}}</ref>. Ngụy Trung Hiền ra sức đả kích Đông Lâm đảng, mượn tam án "Đĩnh kích", "Hồng hoàn", "Di cung" làm cớ, sai đồng đảng ngụy tạo "Đông Lâm đảng điểm tướng lục" thượng báo triều đình. Năm 1625, Minh Hi Tông hạ chiếu thiêu hủy thư viện toàn quốc, lượng lớn người thuộc Đông Lâm đảng bị vào tù, thậm chí bị xử tử. Do yêm đảng có trình độ thấp kém, chính trị không được chỉnh trị, trong nước thường xuyên xảy ra mất mùa đói kém, dân biến không ngừng, ngoại hoạn vẫn tiếp tục, triều Minh bước vào tình cảnh hiểm nghèo. Năm 1626, kho thuốc nổ của vương cung xưởng thuộc Công bộ tại góc tây nam Bắc Kinh phát nổ, tức [[Vương cung xưởng đại bạo tạc|'Vương cung xưởng đại bạo tạc"]], khiến cho hơn hai2 vạn người tử thương. Năm 1627, Minh Hi Tông không cẩn thận rơi xuống nước mà mắc bệnh trọng bệnh, không lâu sau vì thuốc của [[Hoắc Duy Hoa]] mà từ trầnbăng, em là Tín vương Chu Do Kiểm kế vị, tức Minh Tư Tông, niên hiệu Sùng Trinh<ref name="天啟崇禎"/>.
 
[[Tập tin:Ming Chongzhen.jpg|thumb|160px|Minh Tư Tông Chu Do Kiểm là hoàng đế cuối cùng của triều Minh.]]
Sau khi tức vị, Minh Tư Tông kiên quyết loại trừ thế lực của Ngụy Trung Hiền để cải cách triều chính. Ông hạ lệnh đình chỉ xây dựng miếu thờ sống, bức Phụng Thánh phu nhân Khách thị ra ở ngoài cung, cuối cùng xử tử. Ông hạ lệnh Ngụy Trung HiếnHiền đến Phụng Dương trông lăng mộ, Ngụy Trung Hiền trên đường đi cùng đồng đảng là Lý Triều Khâm tự tử, các phần tử khác trong Yêm đảng cũng bị biếm truất hoặc xử tử<ref>{{chú thích báo|title=崇祯智除魏忠贤|url=http://ctdsb.cnhubei.com/html/ncxb/20090307/ncxb643717.html|accessdate = ngày 17 tháng 1 năm 2014 |newspaper=农村新报|date = ngày 7 tháng 3 năm 2009 |language=中文}}</ref><ref>{{chú thích sách|author=陈时龙|title=《正说明朝十六帝》|publisher=中华书局|location=北京|isbn=9787101045499|coauthors=许文继|language=中文|chapter=<思宗朱由检>|date = ngày 1 tháng 1 năm 2005}}</ref>. Tuy nhiên, đảng tranh nội đấu kịch liệt, Minh Tư Tông không tín nhiệm bá quan, ông cố chấp, tăng cường tập quyền<ref name="天啟崇禎"/>. Đương thời, Hậu Kim tại phía đông bắc chiếm lĩnh khu vực Liêu Đông, đám [[Viên Sùng Hoán]] tại Liêu Tây kháng cự Khảkhả hãn [[Hoàng Thái Cực]] xâm nhập. Năm 1629, Hoàng Thái Cực chuyển sang đi đường vòng Trường Thành để xâm nhập Bắc Kinh, Viên Sùng Hoán khẩn cấp hồi quân đối đầu với Hoàng Thái Cực tại Quảng Cừ môn Bắc Kinh. Trải qua Lục bộ cửu khanh hội thẩm, cuối cùng triều đình Minh xử tử Viên Sùng Hoán, sử xưng [[Kỉ Tị chi biến|"Kỉ Tị chi biến"]]. Sau đó, Hoàng Thái Cực nhiều lần viễn chinh Mông Cổ, năm 1636 xưng đế tại Thịnh Kinh, cải quốc hiệu thành Đại Thanh. Hoàng Thái Cực liên tiếp phát động năm5 lần qua Trường Thành xâm nhập các khu vực Trực Lệ, Sơn Đông. Đương thời, Trực Lệ nhiều năm đói kém dịch bệnh, dân sinh gian khổ<ref>{{chú thích sách|author=抱陽生|title=《甲申朝事小計》|chapter=卷六提到|quote=崇禎十六年二月北京,“大疫,人鬼錯雜。薄暮人屏不行。貿易者多得紙錢,置水投之,有聲則錢,無聲則紙。甚至白日成陣,牆上及屋脊行走,揶揄居人。每夜則痛哭咆哮,聞有聲而逐有影”。[[谷應泰]]《明史紀事本末》卷七十八中說「“京師內外城堞凡十五萬四千有奇,京營兵疫,其精銳又太監選去,登陴訣羸弱五六萬人,內閹數千人,守陴不充”。}}</ref>. Cục thế Liêu Tây cũng ngày càng xấu đi, cuối cùng quân Thanh vào năm 1640 chiếm lĩnh Cẩm Châu và các nơi khác, tướng [[Hồng Thừa Trù]] đầu hàng, thế lực triều Minh thu nhỏ đến Sơn Hải quan<ref name="天啟崇禎"/>.
 
Từ trung kỳ về sau, Đại Minh thường phát sinh nông dân khởi nghĩa, đến thời kỳ Minh Tư Tông do triều chính hỗn loạn và quan viên tham ô bất tài, nhu cầu phục vụ chiến tranh với Hậu Kim và quân Hậu Kim cướp đoạt, cùng với việc khí hậu trở nên lạnh hơn do [[Thời kỳ băng hà nhỏ|tiểu băng kỳ]], sản lượng nông nghiệp giảm gây nên đói kém trên quy mô toàn quốc, những điều này đều làm tăng gánh nặng cho nhân dân. Năm 1627, dân đói tại [[Trừng Thành]] thuộc Thiểm Tây tiến hành bạo động, khởi đầu cho giai đoạn Minh mạt dân biến, sau đó [[Vương Tự Dụng]], [[Cao Nghênh Tường]], [[Lý Tự Thành]], [[Trương Hiến Trung]] cùng những nông dân khác khởi nghĩa, cuối cùng phát triển thành Lý Tự Thành hùng cứ Thiểm Tây, Hà Nam, còn Trương Hiến Trung chiếm cứ Tứ Xuyên. Năm 1644, Lý Tự Thành kiến quốc [[Đại Thuận]], sau đó đánh hạ Bắc Kinh, Minh Tư Tông tự vẫn, triều Minh mất<ref name="天啟崇禎"/>. Ngô Tam Quế là tướng Minh trấn thủ Sơn Hải Quan, sau khi triều Minh mất ônglại tahay tin Lý Tự Thành cướp ái thiếp Trần Viên Viên, giết cha mình nên quyết định "dẫn quân Thanh nhập quan", đánh bại quân Đại Thuận. Nhiếp chính vương [[Đa Nhĩ Cổn]] và [[Thuận Trị|Thuận Trị Đếđế]] của triều Thanh nhập quan, Bắc Kinh trở thành thủ đô của triều Thanh. Lý Tự Thành triệt thoái về Thiểm Tây, cuối cùng bị quân Thanh tiêu diệt<ref name="天啟崇禎"/>.
 
=== Nam Minh và Minh Trịnh===
Sau khi triều Minh diệt vong, tại phương nam vẫn còn thế lực, sử xưng [[Nam Minh]]. Thế lực chủ yếu của Nam Minh có Tứ hệ vương: Phúc vương [[Chu Do Tung]], Lỗ vương [[Chu Dĩ Hải]], Đường vương [[Chu Duật Kiện]] và [[Chu Duật Việt]] (𨮁), Quế vương [[Chu Do Lang]]. Sau khi Nam Minh diệt vong, còn có chính quyền Minh Trịnh do Trịnh Thành Công kiến lập, và [[Quỳ Đông thập tam gia]] kháng Thanh. Năm 1644, sau khi Bắc Kinh bị Lý Tự Thành chiếm lĩnh, đại thần Nam Minh có ý ủng hộ hoàng tộc Bắc phạt. Trải qua nhiều lần thảo luận, Phúc vương Chu Do Tung xưng đế (tức Hoằng Quang đế) dưới sự ủng hộ của Phụng Dương tổng đốc [[Mã Sĩ Anh]] và Giang Bắc tứ trấn [[Cao Kiệt]], [[Hoàng Đắc Công]], [[Lưu Trạch Thanh]] và [[Lưu Lương Tá]], tức Hoằng Quang Đế, sử xưng Nam Minh. Năm 1645, triều Thanh phái [[Đa Đạc]] đem đại quân nam hạ Nam Kinh, đương thời Hoằng Quang Đếđế bất tài, đại quyền do tàn dư của Yêm đảng khống chế, Giang Bắc tứ trấn cuối cùng liên tiếp tan vỡ. Quân Thanh công phá Dương Châu do [[Sử Khả Pháp]] tử thủ, Hoằng Quang Đếđế đào thoát đến [[Vu Hồ]] thì bị bắt giữ, bị đưa đến Bắc Kinh để xử tử. Thời gian đó, quân Thanh tiến hành đại đồ sát [[Dương Châu thập nhật|"Dương Châu thập nhật"]], [[Giang Âm bát thập nhất nhật|"Giang Âm bát thập nhất nhật"]] và [[Gia Định tam đồ|"Gia Định tam đồ"]] để trấn áp người Hán phản kháng<ref name="明清之際">{{chú thích sách|author=姜公韜|title=《中國通史 明清史》|chapter=第五章 明清之際|page=第73頁-第93頁}}</ref>.
 
Sau khi Hoằng Quang Đếđế bị giết, Lỗ vương Chu Dĩ Hải tại [[Thiệu Hưng]] xưng là giám quốc, Đường vương Chu Duật Kiện được đám [[Trịnh Chi Long]] ủng hộ xưng đế tại Phúc Châu, tức Long Vũ Đếđế. Tuy nhiên, hai2 thế lực chủ yếu này của Nam Minh không thừa nhận địa vị của đôi bên kia và đánh lẫn nhau. Long Vũ Đếđế liên tục đề nghị đưa quân Bắc phátphạt, song không được Trịnh Chi Long ủng hộ nên cuối cùng không thành. Năm 1646, quân Thanh phân biệt chiếm lĩnh Chiết Giang và Phúc Kiến, Lỗ vương Chu Dĩ Hải đào vong trên biển, Long Vũ Đếđế đào thoát đến Giang Tây thì bị bắt rồi từ trần. Trịnh Chi Long đầu hàng quân Thanh, song vì con là [[Trịnh Thành Công]] khởi binh phản Thanh mà bị triều đình cầm tù. Sau khi Chu Duật Kiện từ trần, em là Chu Duật Việt tại [[Quảng Châu]] xưng đế, tức Thiệu Vũ Đếđế, cùng năm bị tướng Thanh là [[Lý Thành Đống]] công diệt. Đồng thời gian, Quế vương Chu Do Lang tại [[Triệu Khánh]], Quảng Đông xưng đế, tức Vĩnh Lịch Đếđế<ref name="明清之際"/>.
 
Năm 1646, Vĩnh Lịch Đếđế có được các thế lực [[Cù Thức Tỉ]], [[Lý Định Quốc]], [[Tôn Khả Vong]], cùng với ủng hộ của thế lực Trịnh Thành Công tại Phúc Kiến triển khai phản công. Các cựu tướng lĩnh của quân Minh tại các khu vực đã hàng Thanh lần lượt khởi nghĩa, Nam Minh thu phục được các tỉnh [[Hoa Nam]] trong một thời gian. Tuy nhiên, trong cùng năm, tướng Thanh là [[Thượng Khả Hỉ]] suất quân xâm nhập, lần lượt chiếm lĩnh các khu vực Hồ Nam, Quảng Đông. Hai năm sau, Lý Định Quốc, Tôn Khả Vọng và Trịnh Thành Công phát động phản công lần thứ hau2, trong đó Trịnh Thành Công từng bao vây Nam Kinh. Tuy nhiên, các lộ quân Minh cách xa nhau nên khó phối hợp, nội bộ lại phát sinh đám Tôn Khả Vọng làm phản, phản công lần thứ hai2 liên tiếp thất bại rồi kết thúc. Năm 1661, quân Thanh đánh vào [[Vân Nam]], Vĩnh Lịch Đế lưu vong sang thủ đô [[Sagaing]] của vương triều [[Triều Taungoo|Taungoo]] [[Miến Điện]], được Quốc vương Mãnh Đạt ([[Pindale Min]]) tiếp đãi. Sau đó, Ngô Tam Quế đánh vào Miến Điện, em của Mãnh Đạt là Mãnh Bạch ([[Pye Min]]) thừa cơ phát động chính biến. Đến ngày 12 tháng 8.08, Mãnh Bạch phát động "Chú Thủy chi nan", giết hết thị tòng cận vệ của Vĩnh Lịch Đếđế<ref>刘健《庭闻录》记:“七月十九日,缅酋尽杀永历从臣。”</ref>, Vĩnh Lịch Đếđế cuối cùng bị Ngô Tam Quế siết cổ chết, Nam Minh mất<ref name="明清之際"/>.
 
Đến lúc này thế lực phản Thanh chỉ còn Quỳ Đông thập tam gia quân, và Trịnh Thành Công tại Kim Môn-Hạ Môn (sử xưng Minh Trịnh). Tàn dư của lực lượng Lý Tự Thành sau khi kháng Thanh tại Hồ Nam thất bại, dời đến vùng núi Tứ Xuyên-Hồ Bắc tiến hành hoạt động, tại khu vực phía đông của Quỳ Châu phủ tiếp tục kháng Thanh, gọi là Quỳ Đông thập tam gia quân. Năm 1662, quân Thanh bắt đầu tiến công, đến năm 1664 thủ lĩnh [[Lý Lai Hanh]] bị giết nên kết thúc. Trịnh Thành Công sau thất bại tại Nam Kinh thì triệt thoái đến Kim Môn-Hạ Môn, năm 1661 suất quân viễn chinh đảo Đài Loan đang do người Hà Lan chiếm cứ, kết quả thành công, định đô tại Đông Ninh (nay là [[Đài Nam]]). Con là [[Trịnh Kinh]] từng tham dự [[loạn Tam Phiên]] song thất bại. Năm 1683, triều Thanh mệnh [[Thi Lang]] tiến công Đài Loan, chúa [[Trịnh Khắc Sảng]] đầu hàng, Minh Trịnh mất<ref name="明清之際"/>.
 
== Cương vực==
===Tái bắc địa khu===
Trong thời kỳ đầu, triều Minh nhiều lần tác chiến với Bắc Nguyên và sau là Thát Đát cùng Ngõa Lạt, đồng thời tại khu vực Mạc Nam đặt hơn 40 [[vệ sở chế|vệ sở]] phòng vệ, như Đông Thắng vệ, Vân Xuyên vệ, chúng đều là trọng địa biên phòng của triều đình, hướng của chúng vào khoảng tuyến [[Âm Sơn]]-sườn nam Đại Thanh Sơn-sông Tây Lạp Mộc Luân. Sau thập niên 30 của thế kỷ XV, do khí hậu chuyển lạnh, nông nghiệp giảm sút, trong "Tĩnh Nan chi dịch" quân đội biên cương bị Yên vương điều đi nơi khác, do đó biên giới dời một ít về phía nam. Trong những năm Vĩnh Lạc, quân Minh nhiều lần Bắc phạt, tình hình biên giới cải thiện trong một thời gian. Tuy nhiên, từ trung kỳ trở đi, Mông Cổ lại quật khởi, biên giới lại dời về phía nam. Cùng với dựng Trường Thành nhằm phòng ngự Mông Cổ, ven Trường Thành còn đặt "cửu biên" (Liêu Đông, Kế Châu, Tuyên Phủ, Đại Đồng, Diên Tuy, Ninh Hạ, Cam Túc, Thái Nguyên, Cố Nguyên) tăng cường phòng ngự. Trường Thành cũng trở thành biên giới phía bắc của triều Minh vào trung-hậu kỳ, đồng thời còn là giới tuyến giữa khu vực nông canh và khu vực du mục<ref name="明朝疆域">{{chú thích sách|author=姜公韜|title=《中國通史 明清史》|chapter=第三章 制度的更張與勢力的發揚|page=第40頁-第49頁|isbn=9787510800627|publisher=九州出版社|date=2010-1}}</ref>.
 
===Đông bắc địa khu===
Minh Thái Tổ đặt Liêu Đông đô ty để quản lý Liêu Đông, đồng thời nhiều lần tiến quân đến lưu vực Hắc Long Giang, chiêu phủ các bộ lạc địa phương, thế lực của triều đình Minh từng đạt đến [[Dãy núi Stanovoy|Ngoại Hưng An Lĩnh]] (Stanovoy) và cửa sông của Hắc Long Giang, thậm chí đến tận đảo Khố Hiệt (Sakhalin). Năm Vĩnh Lạc thứ 7bảy (1409) thời Minh Thành Tổ, triều Minh đặt Nô Nhi Can đô ty tại khu vực Hắc Long Giang, song đây là cơ cấu không thường trực, không quản lý hơn 130 vệ sở tại Đông Bắc<ref name="《永寧寺記》"/>, đến năm Tuyên Đức thứ 9 (1434) thời Minh Tuyên Tông thì bị phế bỏ. Tuy nhiên, các vệ sở trên lãnh thổ này, và Liêu Đông đô ty vẫn tồn tại, để thi hành thống trị ki mi với địa phương. Sau những năm Chính Thống thời Minh Anh Tông, nhóm Ngột Lương Cáp thuộc Thát Đát và Kiến Châu Nữ Chân dời về phía nam, đồng thời không ngừng xâm phạm Liêu Đông đô ty. Năm Thành Hóa thứ 5năm (1469) thời Minh Hiến Tông, triều đình Minh cho dựng "Liêu Đông biên tường". Từ cuối thế kỷ XVI, thủ lĩnh Kiến Châu Nữ Chân là Nỗ Nhĩ Cáp Xích bắt đầu hưng khởi, thống nhất Nữ Chân, các vệ sở do triều đình Minh đặt dần tiêu vong. Năm Vạn Lịch thứ 44bốn mươi bốn (1616) thời Minh Thần Tông, Nỗ Nhĩ Cáp Xích xưng hãn, kiến quốc Đại Kim. Đến năm Vạn Lịch thứ 47bốn mươi bảy (1619), sau trận Tát Nhĩ Hử, quân Hậu Kim đột phá "Liêu Đông biên tường", chiếm lĩnh đại bộ phận lãnh thổ của Liêu Đông đô ty<ref name="明朝疆域"/>.
 
===Tây bắc địa khu===
Dòng 174:
 
===Tây nam địa khu===
Năm Hồng Vũ thứ 14mười bốn (1381) thời Thái Tổ, triều Minh mới hoàn toàn chiếm lĩnh khu vực Vân Nam-Quý Châu, đồng thời đặt một loạt thổ ty, tuyên úy ty để quản lý, biên giới đạt đến bắc trung bộ của Miến Điện, bắc bộ Lào, bắc bộ Thái Lan ngày nay. Tuy nhiên, về sau các khu vực này bị các quốc gia xung quanh thôn tính. Năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406) thời Thành Tổ, quân Minh tiến công An Nam, biên giới phía nam đến Nhật Nam châu, sang năm sau đặt An Nam bố chính ty, bên dưới đặt 15 phủ, 36 châu, hơn hai trăm200 huyện. Về sau do nhân dân địa phương phản kháng kịch liệt, triều đình Minh vào năm Tuyên Đức thứ 2hai (1427) thời Tuyên Tông phải từ bỏ, An Nam khôi phục và do [[Nhà Lê sơ|vương triều Lê]] cai trị<ref name="明朝疆域"/>. Tại khu vực Tây Tạng, triều đình Minh thi hành chính sách "đa phong chúng kiến", tuy nhiên còn có bất đồng về việc điều này có đại diện cho sự thống trị của triều Minh với Tây Tạng hay không.
 
===Bành Hồ và Áo Môn===
Đầu thời Minh, triều đình đặt Bành Hồ tuần kiểm ty để quản lý quần đảo [[Bành Hồ]]. Năm 1553, người Bồ Đào Nha thu được quyền đậu thuyền tại Áo Môn, đến năm Gia Tĩnh thứ 37ba mươi bảy (1557) thì có được quyền lưu cư, trước khi hai bên ký kết điều ước thông thương vào năm 1887 thì Trung Quốc luôn có chủ quyền với Áo Môn<ref name="明朝疆域"/>
 
== Phân chia hành chính==
[[Tập tin:Ming Dynasty Administrative division vie.jpg|trái|nhỏ|308x308px|Phân chia hành chính Trung Quốc thời cực thịnh.]]
Triều Minh về đại thể kế thừa phân chia hành chính của triều Nguyên, khu hành chính địa phương cấp một đặt 'thừa tuyên bố chính ty' (bố chính ty), 'đề hình án sát sứ ty' (án sát ty), và 'đô chỉ huy sứ ty' (đô ty), phân biệt quản lý hành chính, tư pháp và quân sự, phòng ngừa tập trung quyền lực địa phương<ref name="明朝州省">《細說明朝》〈二一、州、省〉. 黎東方. 第51頁</ref>. 'Bố chính ty' được gọi phổ biến là tỉnh, bên dưới lần lượt phân thành đạo, phủ, và huyện. Đạo là đơn vị hành chính đặt giữa tỉnh và phủ huyện, phân thành hai loại 'phân thủ đạo' và 'phân tuần đạo'. "Phủ" nguyên là lộ của triều Nguyên, lấy thuế lương ít hay nhiều để phân tiêu chuẩn, lương từ 20 vạn thạch trở lên là 'thượng phủ', từ 10 đến dưới 20 vạn thạch là 'trung phủ', dưới mười10 vạn thạch là 'hạ phủ'. Phân định quân sự có hai chế độ là vệ, sở. Thời Đại Tông, Anh Tông đặt tuần phủ quản lý hành chính và tổng đốc quản lý quân sự do trung ương phái đi, địa vị đứng đầu tại bố chính ty và đô ty. Nhằm hạn chế quyền lực của tuần phủ và tổng đốc, còn đặt chức 'đô ngự sử' để cân bằng. Triều Minh cuối cùng có 140 phủ, 193 châu, 1138 huyện, 493 vệ, 359 sở<ref name="明朝州省"/>.
 
===Thừa tuyên bố chính sứ ty===
Thừa tuyên bố chính sứ ty (bố chính ty) quản lý hành chính địa phương, địa vị tương đương với "hành trung thư tỉnh" vào thời Nguyên. Minh Thái Tổ vốn duy trì tên gọi "hành trung thư tỉnh", đến năm 1376 thì đổi thành "bố chính sứ ty", thường gọi là hành tỉnh. Đầu thời Minh đặt 13 bố chính ty cùng kinh sư (địa vị tương đương bố chính ty, quản lý Giang Tô và An Huy hiện nay).

Năm 1380, sau án Hồ Duy Dung triều Minh phế bỏ "trung thư tỉnh", kinh sư và bố chính ty trực thuộc Lục bộ. Thời kỳ Minh Thành Tổ, từ năm 1407 đến năm 1428 đặt Giao Chỉ bố chính ty.

Năm 1413, đặt Quý Châu bố chính ty.

Do thiên đô Bắc Kinh, vào năm 1403 đưa Bắc Bình bố chính ty thăng làm "hành tại", năm 1421 sau khi thiên đô Bắc Kinh gọi là kinh sư (Bắc Trực Lệ), kinh sư cũ đổi thành Nam Kinh (Nam Trực Lệ), hình thành phân chia hành chính "lưỡng kinh thập tam tỉnh".

Lưỡng kinh là Bắc Kinh và Nam Kinh, gọi chính thức là Thuận Thiên phủ và Ứng Thiên phủ, chúng cùng với các châu phủ lân cận lần lượt gọi chung là Bắc Trực Lệ và Nam Trực Lệ, không đặt bố chính ty, 13 bố chính ty gồm: Thiểm Tây, Sơn Tây, Sơn Đông, Hà Nam, Chiết Giang, Giang Tây, Hồ Quảng, Tứ Xuyên, Quảng Đông, Phúc Kiến, Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam. Phân chia hành chính của triều Minh về đại thể phù hợp với địa thế núi sông, song có một số điểm bất hợp lý, như Nam Trực Lệ nằm vắt qua cả ba khu vực Hoài Bắc, Hoài Nam, Giang Nam, khu vực Tô-Tùng về ngôn ngữ-văn hóa thuộc khu Thái Hồ Ngô-Việt song được quy nhập Nam Trực Lệ thay vì Chiết Giang; bồn địa Hán Trung nằm tại phía nam [[Tần Lĩnh]] được quy nhập Thiểm Tây thay vì Tứ Xuyên, Hà Nam bao gồm một phần phía bắc Hoàng Hà. Quý Châu có hình giống loài bướm khi khoảng giữa hẹp song hai bên thì rộng<ref name="明朝州省"/>.
 
1. Thiểm Tây
 
2. Sơn Tây
 
3. Sơn Đông
 
4. Hà Nam
 
5. Chiết Giang
 
6. Giang Tây
 
7. Hồ Quảng
 
8. Tứ Xuyên
 
9. Quảng Đông
 
10. Phúc Kiến
 
11. Quảng Tây
 
12. Quý Châu
 
13. Vân Nam
 
Phân chia hành chính của triều Minh về đại thể phù hợp với địa thế núi sông, song có một số điểm bất hợp lý, như Nam Trực Lệ nằm vắt qua cả ba khu vực Hoài Bắc, Hoài Nam, Giang Nam, khu vực Tô – Tùng về ngôn ngữ – văn hóa thuộc khu Thái Hồ Ngô – Việt song được quy nhập Nam Trực Lệ thay vì Chiết Giang; bồn địa Hán Trung nằm tại phía nam [[Tần Lĩnh]] được quy nhập Thiểm Tây thay vì Tứ Xuyên, Hà Nam bao gồm một phần phía bắc Hoàng Hà. Quý Châu có hình giống loài bướm khi khoảng giữa hẹp song hai bên thì rộng<ref name="明朝州省" />.
 
===Đô chỉ huy sứ ty===
Đô chỉ huy sứ ty (đô ty) quản lý quân sự địa phương, Minh Thái Tổ sử dụng chế độ vệ sở, vào năm 1370 tại các tỉnh đặt một1 "đô vệ", đến năm 1375 mới đặt đô ty quản lý. Đô ty vốn lệ thuộc đại đô đốc phủ, sau án Hồ Duy Dung triều đình chia đại đô đốc phủ làm năm5, phân quyền quản lý các vệ sở. Triều Minh tổng cộng đặt 16 đô ty, 5 hành đô ty, 2 lưu thủ ty. Trong đó, có 13 đô ty trùng tên với bố chính ty, ba đô ty khác là Vạn Toàn đô ty, Đại Ninh đô ty và Liêu Đông đô ty. 5 hành đô ty là Thiểm Tây, Tứ Xuyên, Hồ Quảng, Phúc Kiến, Sơn Tây. Hai lưu thủ ty là Trung Đô lưu thủ ty (nay là [[Phượng Dương]]) đặt vào thời Hồng Vũ, Hưng Đô lưu thủ ty đặt tại Thừa Thiên phủ (nay là [[Chung Tường]], Hồ Bắc) thời Gia Tĩnh<ref>郭紅、靳潤成.《中國行政區劃通史.明代卷》.上海市.復旦大學出版社.2007年8月.</ref>. Trong các đô ty có tính chất ki mi, nổi danh nhất là Nô Nhi Can đô ty quản lý lưu vực Hắc Long Giang, Tùng Hoa Giang và đảo Khố Hiệt; tại khu vực Thanh-Tạng chính giáo hợp nhất đặt hai đô ty Ô Tư Tạng, Đóa Cam, ngoài ra còn đặt tại khu vực giao giới Cam Túc và Thanh Hải hiện nay các vệ sở như Cáp Mật, Khúc Tiên. Những thể chế này có tính chất không giống như đô ty, hành đô ty tại nội địa<ref name="布政使司">《細說明朝》〈二二、布政使司、分守道;按察使司、分巡道〉. 黎東方. 第53頁-第54頁</ref>.:
 
– 16 đô ty.
 
– 5 hành đô ty.
 
– 2 lưu thủ ty.
 
Trong đó, có:
 
– 13 đô ty trùng tên với bố chính ty.
 
– 3 đô ty khác là Vạn Toàn, Đại Ninh và Liêu Đông.
 
– 5 hành đô ty là Thiểm Tây, Tứ Xuyên, Hồ Quảng, Phúc Kiến, Sơn Tây.
 
– 2 lưu thủ ty là Trung Đô lưu thủ ty (nay là [[Phượng Dương]]) đặt vào thời Hồng Vũ, Hưng Đô lưu thủ ty đặt tại Thừa Thiên phủ (nay là [[Chung Tường]], Hồ Bắc) thời Gia Tĩnh<ref>郭紅、靳潤成.《中國行政區劃通史.明代卷》.上海市.復旦大學出版社.2007年8月.</ref>.
 
Trong các đô ty có tính chất ki mi, nổi danh nhất là Nô Nhi Can đô ty quản lý lưu vực Hắc Long Giang, Tùng Hoa Giang và đảo Khố Hiệt; tại khu vực Thanh – Tạng chính giáo hợp nhất đặt hai đô ty Ô Tư Tạng, Đóa Cam, ngoài ra còn đặt tại khu vực giao giới Cam Túc và Thanh Hải hiện nay các vệ sở như Cáp Mật, Khúc Tiên. Những thể chế này có tính chất không giống như đô ty, hành đô ty tại nội địa<ref name="布政使司">《細說明朝》〈二二、布政使司、分守道;按察使司、分巡道〉. 黎東方. 第53頁-第54頁</ref>.
 
===Tuần phủ và tổng đốc===
Tuần phủ quản lý dân chính, nguyên bản là vào thời Minh Tuyên Tông phái đại thần lục bộ, đô sát viện lấy đó làm danh nghĩa để đốc phủ hành chính địa phương, đến thời Minh Đại Tông chính thức hình thành khu hành chinh cấp một. Thời Minh Anh Tông đặt chức tổng đốc, phân làm hai2 loại là ngắn hạn và dài hạn, quản lý quân sự của một vài bố chính ty. Tuy nhiên, quan hệ phụ thuộc giữa tuần phủ và bố chính ty là không đồng nhất, có tuần phủ chỉ gồm 1- 2 bố chính ty, như Sơn Tây-Hà Nam tuần phủ thời Chính Thống; lại có trường hợp trong địa phận một bố chính ty có vài tuần phủ, như Bắc Trực Lệ có Thuận Thiên tuần phủ, Bảo Định tuần phủ, Tuyên Phủ tuần phủ; Nam Trực Lệ có hai2 tuần phủ: Ứng Thiên tuần phủ, Thuận Dương tuần phủ. Cũng có trường hợp tuần phủ quản lý khu vực giao giới giữa các bố chính ty, như Nam Cám Thiều Đinh tuần phủ nằm trên ba3 bố chính ty là Giang Tây, Quảng Đông, Phúc Kiến<ref name="明朝州省"/>.
 
== Chế độ chính trị==
[[Tập tin:Forbidden City Beijing Shenwumen Gate.JPG|260px|thumb|Thần Vũ môn là cửa bắc của Tử Cấm Thành Bắc Kinh, xây xong vào năm Vĩnh Lạc thứ 18 (1420)]]
Năm Hồng Vũ thứ 13mười ba (1380), Minh Thái Tổ lấy việc Thừa tướng Hồ Duy Dung mưu phản nên phế bỏ chức vụ thừa tướng, các hoàng đế sau này cũng không đặt lại chức vụ này. Từ thời [[nhà Tần|Tần]], [[nhà Hán|Hán]] trở đi Trung Quốc đã hơn 1600 năm thực hành chế độ tể tướng, đến đây bị phế bỏ, lục bộ trực tiếp do hoàng đế phụ trách, quyền của thừa tướng và quyền về quân sự hợp làm một, hoàng đế triều Minh một mình nắm đại quyền, thể chế chính trị của triều Minh cũng là chính thể chuyên chế hiếm thấy trong lịch sử thế giới, thi hành thể chế quốc gia tam quyền phân lập: quân quyền, quyền hành chính, quyền giám sát, về sau do quyền giám sát bị phế bỏ, quốc thể mất cân bằng mà nhanh chóng suy bại. Do có nhiều quốc sự, hoàng đế không thể xử lý hết, đến năm Kiến Văn thứ 4 (4) Minh Thành Tổ mới bắt đầu đặt [[nội các]]. Nội các chỉ là cố vấn cho hoàng đế, phê đáp tấu chương do hoàng đế chuyên trách. Nội các triều Minh từ khi khởi đầu đến khi kết thúc đều không phải là cơ cấu hành chính cấp một trung tâm trong triều, được cho rằng chỉ là biệt xưng của Văn Uyên các. Chức vụ Nội các đạiĐại học sĩ phần nhiều là người có tài đức hoặc đại thần trong triều đảm nhiệm, chỉ theo ý chỉ của hoàng đế mà viết ra, gọi là "truyền chỉ đương bút", quyền lực và địa vị còn xa mới bằng tể tướng khi xưa, chỉ có địa vị ngầm, song không có địa vị pháp định. Thời kỳ Tuyên Tông, do có ba3 người họ Dương là Dương Phổ, Dương Sĩ Kỳ và Dương Vinh tham gia nội các, Tuyên Tông phê chuẩn nội các khởi thảo thánh chỉ trần thuật ý kiến của họ, gọi là chế độ "phiếu nghĩ" 票擬, lại trao cho cơ cấu hoạn quan là Ty lễ giám phê thay tức "phê chu" 批朱. Phép "phiếu nghĩ" khắc phục tệ quân chủ không muốn diện kiến các triều thần, song đại thần nội các và hoàng đế ngăn cách, đều dựa vào Ty lễ giám, do đó khởi đầu chế độ hoạn quan chuyên chính trong triều Minh. Nhằm tăng cường giám thị với thần dân toàn quốc, Minh Thái Tổ còn thiết lập cơ cấu đặc vụ mang tên "cẩm y vệ", Minh Thành Tổ lập thêm "đông xưởng", Minh Hiến Tông lập "tây xưởng" (về sau phế bỏ), gọi chung là "xưởng vệ", do hoạn quan thống lĩnh, từ đó quyền thế của hoạn quan triều Minh đạt đến cực độ<ref name="洪武專政"/><ref>王其榘《明代內閣制度史》,中華書局,1989年,第339頁</ref>.
 
===Cơ cấu chủ yếu===
[[Tập tin:Wen Yuan Chamber.JPG|260px|left|thumb|Văn Uyên các là một trung tâm chính trị triều Minh, nằm tại bên đông ba đại điện Tử Cấm Thành.]]
Nội các ban đầu là chỉ cơ cấu tư vấn của hoàng đế, về sau trở thành cơ cấu quyết sách tối cao trên thực tế của triều Minh, địa vị thủ phụ có khi sánh với tể tướng, có quyền "phiếu nghĩ". Chu Nguyên Chương sau khi phế bỏ chế độ trung thư tỉnh và thừa tướng, đích thân xử lý chính vụ, có khi bị kiệt sức, do vậy thiết lập chế độ tứ phụ để phụ tá chính sự, song không hiệu quả, đến năm Hồng Vũ thứ 17mười bảy (1384) thì bãi bỏ. Sau đó, Chu Nguyên Chương mời một số vị hàn lâm học sĩ giúp phụ tá, các quan chức hàn lâm học sĩ này phỏng theo chế độ cũ học sĩ quán các Đường-Tống, được cho là "Mỗ mỗ điện (các) đại học sĩ"<ref>洪武十五年初制时有华盖殿大学士(嘉靖随殿易名中极殿大学士)、文华殿大学士、武英殿大学士、文渊阁大学士、东阁大学士,永乐时增谨身殿大学士(嘉靖随殿易名建极殿大学士)</ref>, bậc quan chỉ có chính ngũ phẩm. Đây chính là cơ cấu nội các<ref>《細說明朝》〈三二、内阁〉. 黎東方. 第77頁</ref>.
 
Triều Minh tại trung ương thiết lập sáu bộ: lại, hộ lễ, côngbinh, hình, công tương tự như các tiền triều đại trước, lúc mới đầu triều Minh tại mỗi bộ tăng thêm một thượngThượng thư, thịThị lang. Sau án Hồ Duy Dung, Chu Nguyên Chương phế bỏ chức thừaThừa tướng, thủ tiêu trungTrung thư tỉnh. Lục bộ do đó địa vị được đề cao, mỗi bộ chỉ đặt một thượngThượng thư, hai thịThị lang, các thượngThượng thư khác trước đó bị giáng làm langLang trung. Bậc quan của thượngThượng thư và thịThị lang các bộ được tăng lên, trong đó Lễ bộ (chủ quản giáo dục, phụ trách lãnh đạo học thuật Nho gia, cùng với tế tự, ngoại giao) và Lại bộ (chủ quản thăng chức quan văn) có tính trọng yếu nhất, Hộ bộ (chủ quản tài chính, thổ địa và nhân khẩu) có số nhân viên đông nhất. Binh bộ (chủ quản quốc phòng), Hình bộ (chủ quản tư pháp, có quyền xét xử vụ án hình sự quy mô lớn) và Công bộ (chủ quản kiến thiết công cộng) có địa vị khá thấp<ref>《細說明朝》〈二七、六 部〉. 黎東方. 第63頁</ref>.:
 
– Có tính trọng yếu nhất là Lễ bộ (chủ quản giáo dục, phụ trách lãnh đạo học thuật Nho gia, cùng với tế tự, ngoại giao) và Lại bộ (chủ quản thăng chức quan văn).
 
– Hộ bộ (chủ quản tài chính, thổ địa và nhân khẩu) có số nhân viên đông nhất.
 
– Binh bộ (chủ quản quốc phòng).
 
– Hình bộ (chủ quản tư pháp, có quyền xét xử vụ án hình sự quy mô lớn).
 
– Công bộ (chủ quản kiến thiết công cộng) có địa vị khá thấp<ref>《細說明朝》〈二七、六 部〉. 黎東方. 第63頁</ref>.
Triều Minh tại trung ương thiết lập sáu bộ: lại, hộ lễ, công, hình, tương tự như các triều đại trước, lúc mới đầu triều Minh tại mỗi bộ tăng thêm một thượng thư, thị lang. Sau án Hồ Duy Dung, Chu Nguyên Chương phế bỏ chức thừa tướng, thủ tiêu trung thư tỉnh. Lục bộ do đó địa vị được đề cao, mỗi bộ chỉ đặt một thượng thư, hai thị lang, các thượng thư khác trước đó bị giáng làm lang trung. Bậc quan của thượng thư và thị lang các bộ được tăng lên, trong đó Lễ bộ (chủ quản giáo dục, phụ trách lãnh đạo học thuật Nho gia, cùng với tế tự, ngoại giao) và Lại bộ (chủ quản thăng chức quan văn) có tính trọng yếu nhất, Hộ bộ (chủ quản tài chính, thổ địa và nhân khẩu) có số nhân viên đông nhất. Binh bộ (chủ quản quốc phòng), Hình bộ (chủ quản tư pháp, có quyền xét xử vụ án hình sự quy mô lớn) và Công bộ (chủ quản kiến thiết công cộng) có địa vị khá thấp<ref>《細說明朝》〈二七、六 部〉. 黎東方. 第63頁</ref>.
 
Về cơ cấu thẩm nghị thảo chiếu, triều Minh ban đầu chỉ đặt "cấp sự trung" và "trung thư xá nhân", không đặt hai2 tỉnh "trung thư", "môn hạ". Cơ cấu thẩm nghị của triều Minh là lục khoa cấp sự trung, đến năm Hồng Vũ thứ 24hai mươi bốn (1391), đặt 6 người là đô cấp sự trung, phân vào sáu khoa Lại, Hộ, Lễ, Công, Hình, Binh, mỗi khoa một người, bên dưới mỗi "đô cấp sự trung" lại có một tả hữu cấp sự trung và một số cấp sự trung. Chế độ lục khoa cấp sự trung về cơ bản là kế thừa chế độ Môn hạ tỉnh thời Đường, song quan vị hạ giảm, cơ cấu tinh giản hơn. Quan chức lục khoa tuy có phẩm cấp thấp, song chức quyền lại rất cao, họ có thể bác bỏ ý chỉ của hoàng đế, cũng có thể nắm giữ chức trách gián quan, đối với quan lại lục bộ cũng có quyền giám sát tương ứng, do đó chế độ này cũng phát huy tác dụng nhất định đối với cải thiện triều chính. Cơ cấu chấp hành sự vụ trọng yếu của trung ương là "Ngũ tự", bao gồm Đại lý tự, Thái thường tự, Quang lộc tự, Thái bộc tự, Hồng lư tự, tương đương thời Đường Tống, giảm bớt bốn4 tự: Tông chính tự được nhập vào Tông nhân phủ, Vệ úy tự được nhập vào Binh bộ, Ty nông tự và Thái giám phủ được nhập vào Hộ bộ. Đại lý tự cùng Hình bộ và Đô sát viện hợp thành Tam pháp ty, phụ trách phúc thẩm và phúc hạch án hình sự trọng đại. Thủ trưởng của Đại lý tự gọi là "Đại lý tự khanh", cũng là một trong cửu khanh, khanh của bốn tự còn lại có chức quyền khá thấp. Thái thường tự phụ trách tế tự; Thái bộc tự quản lý ngựa và chăn nuôi gia súc toàn quốc; Quang lộc tự phụ trách bày tiệc; Hồng lư tự phụ trách tiếp đãi khách ngoại quốc.<ref>《細說明朝》〈二九、六科 三○、五寺〉. 黎東方. 第71頁-第74頁</ref>
 
Trước năm Hồng Vũ thứ 13mười ba (1380), triều Minh còn kế tục chế độ giám sát của triều Nguyên, thiết lập "Ngự sử đài", có tả hữu ngự sử đại phu. Sau đó, Chu Nguyên Chương phế bỏ Ngự sử đài. Hai năm sau, Chu Nguyên Chương thiết lập cơ cấu giám sát mới là "Đô sát viện", bên dưới Đô sát viện thiết lập một số người làm "Đô sát ngự sử", phân tuần các tỉnh toàn quốc, gọi là Thập nhị đạo giám sát ngự sử. Mỗi đạo có ba3 đến năm5 người là giám sát ngự sử, phạm vi nói chung là một tỉnh. Tuy nhiên giám sát ngự sử đều trú tại kinh sự, có việc thì mang theo ấn xuất tuần, xong việc thì về kinh trả ấn. Đến thời Minh mạtMạt, giám sát ngự sử phân thành 13 đạo, tổng cộng có 110 người. Đô sát viện và lục khoa đều có chức năng gián quan và chức trách báo cáo sự tình, cho nên gọi chung là "khoa đạo ngôn quan"<ref>《細說明朝》〈二八、都察院、十三道〉. 黎東方. 第69頁</ref>.
 
Triều Minh thực hành nghiêm mật chính trị đặc vụ, cơ cấu đặc vụ chủ yếu bao gồm [[cẩm y vệ]], [[đông xưởng]] và [[tây xưởng]], thời kỳ Vũ Tông từng thiết lập "nội hành xưởng". Cẩm y vệ được thiết lập vào năm Hồng Vũ thứ 15mười lăm (1382), trực tiếp nghe lệnh của hoàng thượng, có thể tróc nã bất kỳ ai, đồng thời tiến hành thẩm vấn không công khai. Sau khi thành lập đông xưởng, quyền lực của cẩm y vệ bị tước giảm. Đông xưởng thành lập vào năm Vĩnh Lạc thứ 18mười tám (1420), nhằm để Minh Thành Tổ trấn áp chính trị lực lượng phản đối, địa điểm tại bắc Đông An Mônmôn tại kinh thành. Chức trách chủ yếu của đông xưởng là giám thị quan viên chính phủ, nhân sĩ kiệt xuất trong xã hội, các học giả và các lực lượng chính trị khác, đồng thời có quyền đưa kết quả giám thị trực tiếp hồi báo hoàng thượng. Căn cứ thông tin giám thị có được, đối với phái phản đối chính trị có địa vị khá thấp, đông xưởng có thể trực tiếp tróc nã, thẩm vấn; còn đối với quan viên cấp cao trong chính phủ hoặc người có thân phận hoàng thân quý tộc, đông xưởng sau khi được hoàng đế cấp quyền có thể tiếp hành tróc nã, thẩm vấn họ. Tây xưởng thành lập vào thời kỳ Hiến Tông, thủ lĩnh là [[Uông Trực (hoạn quan)|Uông Trực]], sau năm 1482 thì bị phế bỏ, sau này được Vũ Tông tạm thời khôi phục. Nội xưởng thiết lập trong thời kỳ Vũ Tông, thủ lĩnh là hoạn quan [[Lưu Cẩn]], sau khi Lưu Cẩn bị giết thì nội xưởng và tây xưởng đồng thời bị phế bỏ, chỉ còn đông xưởng<ref>丁易,《明代特務政治研究》</ref>.
 
===Cơ cấu khác===
Quan công cô bao gồm [[tam công]] và tam cô, trên danh nghĩa là đứng đầu các thần tử, song các chức quan này đều chỉ là chức hão, thường trao cho đại thần có công lao tương đối lớn để vinh danh. Tam công là thái sư, thái phó, thái bảo, tam cô là ba chức phụ giúp: thiếu sư, thiếu phó, thiếu bảo. Trong đó, thái bảo và thái phó trên danh nghĩa là thầy giáo của thái tử, còn thái sư trên danh nghĩa là thầy giáo của hoàng thượng, song thực tế cơ cấu phụ đạo thái tử là "chiêm sự phủ". Bên dưới chiêm sự phủ đặt hai phòng, một cục, một thính. Ngoài ra, còn có Thái y viện, chuyên môn phụ trách sức khỏe và điều trị y tế cho nhân viên hoàng thất. Hàn lâm viện là cơ quan học thuật tối cao chính thức của chính phủ, địa vị tương đối quan trọng, thậm chí cũng có sức ảnh hưởng tương đối lớn trong chính phủ. Thủ trưởng của Hàn lâm viện là Hàn lâm đại học sĩ, người giữ chức vị này thường kiêm nhiệm đại thần nội các<ref>《細說明朝》〈三一、三公、三孤;詹事府、翰林院〉. 黎東方. 第75頁</ref>.
 
Ngoại tam giám bao gồm Quốc tử giám, Khâm thiên giám, Thượng lâm uyển giám. Khâm thiên giám phụ trách quan trắc chiêm tinh. Quốc tử giám là cơ cấu giáo dục chính thức tối cao, cũng là cơ cấu lãnh đạo quan học toàn quốc, có một người tế tửu, một người ty nghiệp, một người giám thừa, năm ngườiđại bác sĩphu, 15 người trợ giáo, 10 người học chính, 7 người học lục, một người1 điển bộ, một người1 điển tịch, hai người2 điển soạn. Thượng lâm uyển giám phụ trách quản lý ngự hoa viên, bãi chăn thả và vườn rau của hoàng đế.
 
Nội thập nhị giám là sở quan của hoạn quan, bao gồm ti lễ giám, nội cung giám, ngự dụng giám, ty thiết giám, ngự mã giám, thần cung giám, thượng thiện giám, thượng bảo giám, ấn thụ giám, trực điện giám, thượng y giám, đô tri giám, trong đó tyti lễ giám là quan trọng nhất. Thái giám cầm bút viết văn trong thời kỳ hoạn quan chuyên quyền cực đoan còn thay thế hoàng đế phê chuẩn công văn. Ngoài ra, trong cung còn thiết lập bốn4 ty (tích tân, chung cổ, bảo sao, hỗn đường), tám8 cục (binh trượng, ngân tác, hoán y, cân mạo, châm công, nội chức nhiễm, tửu thố diện, ti uyển), hợp thành 24 nha môn nội quan. Cung nữ có 6 cục (thượng cung, thượng nghi, thượng phục, thượng thực, thượng tẩm, thượng công), dưới mỗi cục đặt bốn4 ty.
 
== Ngoại giao==
Những năm đầu, triều đình Minh thực thi thể chế triều cống, mậu dịch triều cống cho nhiều hơn nhận, nhiều người Nhật Bản giả làm sứ giả triều cống nhằm nhận được lợi ích. Trên thực tế, Nhật Bản đang trong trạng thái cát cứ, không có chính quyền trung ương thống nhất, rất nhiều người Nhật Bản giả làm sứ giả triều cống sang Trung Quốc không thuộc quyền quản lý của chính phủ Nhật Bản, sau khi triều cống họ lưu lại cướp đoạt tại khu vực duyên hải của Trung Quốc, đây là Uy khấu thời Minh sơ. Nhằm phòng chống Uy khấu, Minh Thái Tổ ban bố chính sách [[hải cấm]]. Từ đó trở đi, nếu muốn sang Trung Quốc giao thương thì cần phải theo phương thức triều cống kiêm mậu dịch, ngoài ra còn có tác dụng thu phục kết giao các quốc gia xung quanh. Chính sách quản chế mâu dịch nghiêm khắc của triều Minh khiến cho mậu dịch thông thường được tiến hành bí mật, chuyển thành mậu dịch buôn lậu. Khu vực tập trung cảng mậu dịch khu vực chuyển từ Quảng Đông, Phúc Kiến sang các thuộc địa của phương Tây tại Đông Nam Á. Do chính phủ Trung Quốc mất đi vai trò duy trì trật tự trên biển, các tập đoàn hải tặc hoành hành. Do mậu dịch hàng hải vẫn phải tiến hành theo phương thức ngầm, lượng lớn đồ bạc từ châu Mỹ được đưa vào Trung Quốc, bạc bắt đầu đóng vai trò là tiền tệ phổ biến<ref>陳高華、陳尚勝.《中國海外交通史》.台北.文津出版社.1997 年.</ref>.
 
===Trịnh Hòa hạ Tây Dương và hải cấm===
Sau khi Minh Thành Tổ lên ngôi, trong những năm Vĩnh Lạc, triều đình phái khiển nhà hàng hải [[Trịnh Hòa]] đem thuyền đội bảy7 lần hạ Tây Dương, đi xa nhất đến bờ biển phía đông châu Phi, và còn phái khiển [[Trần Tử Lỗ]] đi sứ sang mười tám18 nước tại [[Tây Vực]] như [[Nhà Timur|Samarkand]], Thổ Lỗ Phồn, Hỏa Châu, tăng cường giao lưu về kinh tế chính trị giữa triều Minh và thế giới, thể hiện triều đại Vĩnh Lạc ở vào đỉnh cao thịnh vượng và có tính khai phóng. Sang thời Minh Nhân Tông, hoàng đế nghe theo ý kiến của một số đại thần trong triều, nhận định điTâyđi Tây Dương gây lãng phí quá độ, hiệu quả nhận được không lớn, tuyên bố đình chỉ hoạt động này. Năm Tuyên Đức thứ 5năm (1431) thời Minh Tuyên Tông, hoàng đế phái Trịnh Hòa hạ Tây Dương lần thứ bảy, cũng là lần cuối. Thời Minh Hiến Tông, từng có thái giám đề nghị với hoàng đế tiếp tục tiến hành hạ Tây Dương, hoàng đế hạ chiếu đến Binh bộ yêu cầu tư liệu của Trịnh Hòa như hải đồ. Tuy nhiên, các quan viên như [[Lưu Đại Hạ]] nhận định hạ Tây Dương gây hại lớn cho quốc gia, vô ích, do đó đem các tư liệu từ hành trình của Trịnh Hòa giấu đi (có thuyết nói là tiêu hủy), kế hoạch do đó bị bãi bỏ. Về sau, Uy khấu hoành hành, triều Minh gia tăng mức độ hải cấm, đến sau năm Long Khánh thứ 1nhất (1567) thời Mục Tông, Uy khấu dần được bình định, triều đình nhận thấy tính quan trọng của mậu dịch đối ngoại đối với cư dân ven biển, do đó từng bước giải trừ hải cấm, khiến mậu dịch bí mật trong dân gian được hợp pháp hóa, mậu dịch quốc tế sôi động khiến Trung Quốc tiến vào hệ thống mậu dịch thế giới đang dần thành hình<ref>《明史:一個多重性格的時代》〈第一篇 第四章 邊疆經營與對外交往〉. 第66頁-第80頁</ref>.
 
===Uy khấu và Nhật Bản===
Uy khấu tạo thành mối uy hiếp nghiêm trọng đối với hải cương của triều Minh, tuy vậy thành phần chủ yếu của Uy khấu không phải là người Nhật Bản mà là lưu dân bị phá sản tại khu vực duyên hải Trung Quốc. Mặc dù có các chiến dịch "kháng Uy" của Chu Hoàn và Trương Kinh, song cuối cùng đều không thể đạt được thành công hoàn toàn. Nhằm đề phòng Uy khấu xâm nhiễu, trong thời kỳ trị vì, Thế Tông thực thi hải cấm, đoạn tuyệt mậu dịch với Nhật Bản. Đến khi các danh tướng như Thích Kế Quang tận lực "kháng Uy", Uy khấu mới bị trừ sạch, tình hình hải cương mới trở nên bình ổn hơn. Sau khi Toyotomi Hideyoshi (Phong Thần Tú Cát) thống nhất Nhật Bản, có ý muốn chiếm lĩnh Triều Tiên. Năm Vạn Lịch thứ 20hai mươi (1592), Nhật Bản tấn công Triều Tiên, Quốcquốc vương của Triều Tiên đào thoát sang [[Nghĩa (huyện)|Nghĩa Châu]] đồng thời phái sứ giả cầu cứu triều đình Minh. Triều Minh từng giành được thắng lợi trong chiến tranh, hai bên từng tiến hành hòa đàm, song sau năm Vạn Lịch thứ 25hai mươi lăm (1597) Nhật Bản lại tiến công Triều Tiên. Năm Vạn Lịch thứ 26hai mươi sáu (1598), Toyotomi Hideyoshi bệnh mất, lòng quân Nhật Bản dao động, kết quả là triệt quân. Chiến tranh với Nhật Bản làm suy yếu nghiêm trọng quốc lực của Minh và Triều Tiên, còn Nhật Bản rơi vào tình trạng phân liệt, trong khi đó các bộ lạc Nữ Chân trở thành bên hưởng lợi<ref name="北虜南倭">《明史:一個多重性格的時代》〈第三篇 第十四章 北虜南倭問題及其解決〉. 第256頁-第266頁</ref>.
 
[[Tập tin:Matteo Ricci 2.jpg|nhỏ|phải|Giáo sĩ [[Matteo Ricci]] có quan hệ mật thiết với triều Minh, đưa đến khoa học kỹ thuật và Thiên Chúa giáo từ Tây phương.]]
 
===Mông Cổ và Nữ Chân===
Mông Cổ và Nữ Chân là hai bộ tộc tạo thành mỗimối uy hiếp lớn nhất tại biên cảnh của triều Minh, người đương thời gọi là Tây Lỗ và Đông Lỗ. Trong những năm đầu triều Minh, khi vũ lực còn cường thịnh, từng có thời gian đuổi người Mông Cổ lên Mạc Bắc, Mông Cổ cũng vì nội loạn mà phân liệt thành các nhóm như Thát Đát, Ngõa Lạt nên không đủ lực xâm nhập phương namNam. Sau này, cùng với việc triều Minh suy lạc, nhóm có thực lực nhất trong các bộ lạc Mông Cổ sau khi xưng bá trong tộc còn nhiều lần tiến công triều Minh, như "Thổ Mộc bảo chi biến" do người Ngõa Lạt, "Canh Tuất chi biến" do Thổ Mặc Đặc bộ. Cương giới của triều Minh do đó thu nhỏ, còn quốc lực cũng bị tiêu hao rất nhiều. [[Yêm Đáp Hãn|Yêm Đáp hãn]] về sau bắt đầu kết giao với triều Minh, thụ phong tước Thuận Nghĩa vương, tam nương tử kế thừa chính sách hòa bình của ông. Khu vực biên giới Minh-Mông an ninh hòa bình, đến sau khi Hậu Kim khống chế Mông Cổ thì tình hình này mới kết thúc. Thời kỳ đầu, triều đình Minh từng đặt Nô Nhi Can đô ty để quản lý các bộ lạc tại Đông Bắc, người Nữ Chân trong giai đoạn này là đồng minh với Minh để bài trừ thế lực tàn dư đối địch tại Đông Bắc, quan hệ song phương trong giai đoạn mật thiết. Tuy nhiên, đến trung hậu kỳ, triều đình Minh thi hành một số chính sách không thích hợp, tiến hành kỳ thị, hạn chế, kích động phân hóa người Nữ Chân. Khi các bộ lạc Mông Cổ và Nữ Chân tại Đông Bắc ngày càng lớn mạnh, Nô Nhi Can đô ty bị phế, năng lực khống chế tại Đông Bắc của triều Minh càng suy giảm. Sang thế kỷ XVII, thủ lĩnh Kiến Châu Nữ Chân là Nỗ Nhĩ Cáp Xích thống nhất các bộ lạc Nữ Chân, khiến người Mông Cổ hàng phục, vào năm 1616 kiến quốc Đại Kim, đối địch với triều Minh. Hậu Kim chiếm lĩnh đại bộ phận lãnh thổ Liêu Đông, có dã tâm làm chủ Trung Nguyên, uy hiếp nghiêm trọng đến an toàn của triều Minh. Năm 1636, Đại Kim cải quốc hiệu sang Đại Thanh, kiến lập Thanh triều, cuối cùng vào năm 1644 sau khi triều Minh diệt vong tiếp nối thống trị Trung Quốc trong 267 năm<ref>《明史:一個多重性格的時代》〈第四篇 第十八章 邊疆與民族問題的新挑戰〉. 第352頁-第358頁</ref>.
 
===Các quốc gia châu Âu===
Sau khi châu Âu tiến vào [[Thời đại Khám phá|thời đại khám phá hàng hải]], người Bồ Đào Nha nhằm tiếp tục khai thác tuyến hàng hải đến Ấn Độ, Trung Quốc, sau khi chiếm lĩnh Malacca năm 1511, lại có ý đồ lập cứ điểm mậu dịch tại Trung Quốc. Năm Chính Đức thứ 7bảy (1513) thời Vũ Tông, Quốcquốc vương Bồ Dào Nha [[Manuel I của Bồ Đào Nha|Emmanuel I]] vì muốn thông thương với triều đình Minh nên phái đoàn sứ giả đến Trung Quốc. Đoàn sứ giả muốn đổ bộ tại Quảng Châu, song bị từ chối nhập cảnh. Họ chuyển sang dùng vũ lực chiếm cứ Đồn Môn, bùng phát [[Hải chiến Đồn Môn|"Hải chiến Đồn Môn"]], "Bộ chiến Tây Thảo Loan" với triều Minh, kết quả chiến bại. Cuối cùng, Gia Tĩnh Đếđế đồng ý cho đoàn nhập cảnh, cùng lúc nhượng Áo Môn cho người Bồ Đào Nha, chấp thuận cho họ đến Quảng Châu mỗi năm, đây là lần đầu tiên cường quốc phương tây chính thức đổ bộ Trung Quốc. Sau đó, các quốc gia châu Âu khác như Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh Quốc cũng phái các sứ đoàn đến, khiến cho không ít sự vật phương Tây truyền vào Trung Quốc. Năm Vạn Lịch thứ 10mười (1582) thời Thần Tông, [[Matteo Ricci]] phụng mệnh đến Trung Quốc công tác, ông rất nhanh chóng lĩnh hội Trung văn, Nho giáo, có được cảm tình tốt của sĩ đại phu triều Minh. Sau đó, ông được cử đến Bắc Kinh, được Thần Tông tín nhiệm. Ông đóng góp cho Trung Quốc các cống phẩm như [[Khôn dư vạn quốc toàn đồ|"Khôn dư vạn quốc toàn đồ"]], [[đồng hồ|"đồng hồ"]], [[đồng hồ Mặt Trời|"đồng hồ Mặt Trời"]], đại pháo Tây Dương, [[kính viễn vọng]], hỏa thương, Tây dược, tượng [[Maria]], Thập tự giá. Matteo Ricci không chỉ truyền bá Thiên Chúa giáo mà còn truyền cảm hứng cho đám [[Từ Quang Khải]], [[Lý Chi Tảo]] học tập Tây học. Ngoài ra, ông còn đưa các loại hình văn hóa của Trung Quốc truyền đến châu Âu, như tư tưởng Nho gia, học thuyết Phật giáo, cờ vây. Ngoài ra, vào thời kỳ Minh mạtMạt có không ít quân đội triều Minh từng trang bị hỏa khí đặc biệt là đại pháo Tây Dương<ref name="北虜南倭"/>.
 
== Quân sự==
===Thời kỳ đầu và giữa===
[[Tập tin:Ming musketeers.jpg|200px|thumb|left|[[Điểu thương thủ|Hỏa thương thủ]] của Thần cơ doanh triều Minh.]]
Sau khi lập quốc, [[Minh Thái Tổ]] thấy rằng người Mông Cổ vẫn là một mối đe dọa thường trực cho Trung Hoa. Nhà vua quyết định đánh giá lại quan điểm giai cấp võ nhân luôn phải ở mức độ kém hơn giai cấp văn nhân bắt nguồn từ thời [[nhà Tống]]. Minh Thái Tổ cho giữ vững một đội quân hùng mạnh mà vào năm 1384, nhà vua đã tổ chức lại theo hệ thống "''vệ sở''". Mỗi đơn vị quân sự bao gồm 5.600 người được chia vào 5 sở và 10 binh đoàn. Đến năm 1393, tổng quân số vệ sở đã đạt đến 1.200.000 người. Quân lính được phân phát đất đai để trồng trọt và chức vụ được thế tập. Loại hình ''vệ sở'' có thể được truy ngược lại chế độ ''phủ binh'' của thời [[Nhà Tùy|Tùy]] [[Nhà Đường|Đường]].
 
Nguồn gốc ban đầu của quân đội triều Minh, gồm có các binh sĩ vốn có, gọi là tòng chinh, có binh sĩ triều Nguyên và binh sĩ quần hùng quy phụ, có người hoạch tội đày ải, song nguồn chủ yếu nhất là tuyển theo hộ tịch, cũng tức là 'đóa tập quân'. Ngoài ra, còn có các phương thức giản bạt, đầu sung và thu tập. Ngoài ra, từ trung kỳ triều Minh trở về sau còn có chuyện cưỡng bách dân làm binh, tuy nhiên đều là thiểu số, về mặt chính thức, "vệ sở chế" vẫn là quân chế chủ yếu. Vệ sở chế là tại yếu địa quân sự các địa phương toàn quốc thiết lập vệ sở trú quân, "vệ" có quân đội quy mô 56005.600 người, bên dưới có các đơn vị như thiên hộ sở, bách hộ sở, tổng kỳ và tiểu kỳ, các vệ sở đều lệ thuộc ngũ quân đô đốc phủ, cũng là lệ thuộc Binh bộ, khi hữu sự được điều động, khi vô sự lại trở về vệ sở. Nguồn gốc của quân đội là quân hộ thế tập, do mỗi hộ phái một người làm "chính đinh" đến vệ sở làm binh, quân nhân trong vệ sở luân phiên phòng thủ và đồn điền, đồn điền đáp ứng nhu cầu của quân đội và tướng quan. Mục tiêu của là nuôi binh song không tiêu hao tài lực quốc gia, song từ thời Minh Tuyên Tông về sau thì không thể duy trì, mức sinh hoạt và địa vị của quân nhân ngày càng hạ thấp, binh sĩ đào ngũ dần gia tăng, quân bị do đó dần dần hư hỏng<ref>《細說明朝》〈二五、军民分籍、卫所〉. 黎東方. 第59頁-第60頁</ref>.
 
Con của Minh Thái Tổ là [[Minh Thành Tổ]] đã cho sửa chữa hệ thống phòng thủ phía Bắcbắc và xây dựng đội quân mạnh ở vùng đệm với Mông Cổ, tiến hành tiến đánh định kì vào Mông Cổ để làm tê liệt sức mạnh của họ. Ông thậm chí còn thành công trong việc buộc Mông Cổ trở thành một chư hầu Nhà Minh, và tiến hành cô lập người Mông Cổ. Thông qua chiến đấu, Minh Thành Tổ đã đánh giá cao tầm quan trọng của kỵ binh trong chiến trận và đã dành nhiều nguồn lực để phát triển nó. Minh Thành Tổ dành cả đời để đánh Mông Cổ, có cả thắng thua, tuy nhiên qua các cuộc chinh phạt này, biên giới Nhànhà Minh được mở rộng và trong lần chinh phạt thứ 2 đã giúp cho Đại Minh có được hòa bình ở phía bắc trong bảy7 năm. Ông thực hiện 5 cuộc viễn chinh vào sa mạc Gobi và Siberia và nghiền nát những tàn tích còn sót của [[Nhà Nguyên]], người Mông Cổ đã phải bỏ chạy xa về phía bắc.
 
Nhờ kế thừa những thành tựu khoa học mà người Mông Cổ mang về từ khắp nơi trên thế giới, nhà Minh có một quân đội có thể nói là đông đảo và trang bị tốt nhất thế giới trong thế kỉ 14XIV, 15XV. Mỗi đại đội bộ binh có 112 người., 40% mang giáo dài, 40% mang cung hoặc hỏa thương hoặc súng hỏa mai, 20% mang kiếm và khiên. Họ còn được hỗ trợ bởi kị binh nhẹ và đại bác.
 
[[Tập tin:大沽口炮臺:明代鐵炮(1.jpg|280px|thumb|Pháo đài Đại Cô Khẩu: Thiết pháo thời nhà Minh]]
[[Tập tin:Arms of Ming army2.jpg|280px|thumb|Pháo ngựa kéo của quân Minh]]
[[Tập tin:Arms of Ming army5.jpg|280px|thumb|Súng cầm tay 5 nòng của quân Minh]]
Trong khi quân đội Nhà Minh thời kì đầu cực kì thiện chiến, đội quân này đã dần suy yếu sau cái chết của [[Minh Thành Tổ]]. Do hòa bình kéo dài nên việc huấn luyện trở nên chểnh mảng hơn, lứa quân sĩ giàu kinh nghiệm già dần rồi qua đời, lứa quân sĩ mới thì lại thiếu kinh nghiệm thực chiến. Sự tham nhũng của bộ máy quan lại cũng khiến quân đội nhà Minh suy yếu. Đồn điền vốn của quân sĩ tự cày cấy nuôi nhau bị các võ quan cao cấp và các địa chủ lớn tại địa phương chiếm làm của riêng, thu nhập của đồn điền không đủ nuôi binh sĩ<ref name="vth316">Vương Thiên Hữu, sách đã dẫn, tr 316</ref>. Quân sĩ bỏ trốn rất nhiều, tính đến năm [[1448]], Bộbộ Binh báo cáo lên triều đình, tổng số quân sĩ bỏ trốn phải xóa tên lên tới 66 vạn người, điển hình tại một Bách hộ ở [[Sơn Đông]], trong tổng số 120 quân lính bỏ trốn gần hết chỉ còn lại 1 người. Ngoài ra, vũ khí trang bị cho quân đội nhà Minh cũng vừa thiếu vừa cũ kỹ, nhiều thứ bị hư hỏng<ref name="vth316"/>. Cuối cùng 60 vạn quân Minh đã bị quân Mông Cổ đánh bại trong [[Sự biến Thổ Mộc bảo|"sự biến Thổ Mộc Bảo"]] vào năm 1449 thời [[Minh Anh Tông]]. Tuy nhiên, quốc lực nhà Minh lúc này vẫn còn rất mạnh nên quân Mông Cổ đã không thể đánh chiếm được Bắc Kinh và phải rút đi.
 
Để bù đắp cho chất lượng binh sỹ bị xuống cấp, nhà Minh rất quan tâm đến việc cải tiến trang bị, nhất là hỏa khí (súng cầm tay, đại bác). Có học giả nhận định kỹ thuật chế tạo hỏa khí Trung Quốc bắt đầu từ thời kỳ Đường - Tống, vào thời Minh đã phát triển đến trình độ rất cao. Hỏa khí thời kỳ này không chỉ đa dạng về chủng loại, mà kỹ thuật chế tạo và tính năng đều được nâng cao cực lớn. [[Tên lửa]] và [[súng hỏa mai]] là các hỏa khí hạng nhẹ chủ yếu của quân đội triều Minh, mìn đã rất thịnh hành vào thời Minh, phát triển hỏa khí hình ống đặc biệt nổi bật. Trung kỳ triều Minh, phật lang cơ và hồng di đại pháo và các hỏa khí tâyTây dươngDương khác truyền đến, khiến triều Minh học hỏi ưu điểm nhắm mục tiêu của chúng, để cải thiện tính năng hỏa khí tự sản xuất. Đương thời, thời đại binh khí lạnh của Trung Quốc sắp kết thúc, thời đại hỏa khí đang đến, dù Trung Quốc có cơ hội bắt kịp trình độ kỹ thuật hỏa khí phương Tây, song quá trình này bị gián đoạn do triều Minh diệt vong<ref>{{chú thích sách|author=邢涛|title=《中国通史·<第二十一章·集权下的统治·明朝的军事建设·热兵器的兴盛>》|publisher=北京出版社|location=北京|isbn=9787200050646|pages=第143页|coauthors=纪江红|language=中文|date=2003年10月1日}}</ref>。
 
Năm 1530, đã có một đề nghị cải cách, theo đó giảm bớt số lượng quân đồn trú bằng cách tăng cường trang bị những khẩu pháo nhỏ, mỗi khẩu do ba người vận hành, điều này sẽ giúp giảm đi gánh nặng quân số. Vài ngàn hỏa khí đã được sản xuất trong những năm sau đó nhưng sản lượng không đủ. Trong thời gian này, các hỏa khí truyền thống của Trung Quốc đã bắt đầu được thay thế bằng các loại vũ khí phương Tây. Những khẩu hỏa mai tân tiến được đưa vào vùng Tâytây Bắcbắc Trung Quốc từ đế quốc [[Ottoman]] thông qua buôn bán đường biển, và vào các vùng đất khác trong những năm 1540 bởi hải tặc Nhật Bản, vốn sao chép chúng từ người Bồ Đào Nha. Những vũ khí này được người Trung Quốc gọi là “điểu thương” do cơ cấu điểm hỏa giống như con chim đang mổ xuống. [[Pháo Phật Lăng Cơ]] (Frankish cannon) có lẽ đã được người Trung Quốc thu được lần đầu tiên vào năm 1523 trên hai con tàu Bồ Đào Nha bị bắt, sau đó họ đã sản xuất loại pháo này vào năm 1529. Ban đầu, pháo Phật Lăng Cơ được dùng để gọi những khẩu súng nạp hậu làm bằng sắt gắn, nhưng thuật ngữ này sau này còn được dùng để gọi cả những khẩu pháo lớn nạp đạn đầu nòng và những phiên bản nhẹ và di động hơn làm bằng gỗ. Phương pháp sử dụng pháo cũng rất phức tạp: một ghi chép lịch sử địa phương tại Tô Châu dưới thời Sùng Trinh đã mô tả lại những người lính đã dùng kính viễn vọng để ngắm bắn cho pháo trong một trận chiến chống lại [[Lý Tự Thành]]. Tuy nhiên, do không được quan tâm đúng mức nên vào cuối thể kỉ 16XVI, pháo binh Trung Quốc đã lạc hậu hơn pháo binh hạng nặng ở châu Âu. Những khẩu pháo ở Trung Quốc chỉ còn được dùng để bảo vệ cho các bức tường thành, nơi mà tính di động và tốc độ bắn của chúng ít quan trọng hơn khi ở trên những chiến trường trống trải.
 
Trong những năm Gia Tĩnh, khi ứng phó loạn [[Oa khấu]], tướng [[Thích Kế Quang]] tại khu vực Chiết Giang sử dụng phương thức chiêu mộ dân binh huấn luyện thêm, thay thế vệ sở binh không đảm đương nổi. Chính vì nguyên nhân quân chính quy là Vệ sở quân không đảm đương nổi, cho nên lực lượng dân binh đến hậu kỳ triều Minh dần dần đảm nhiệm vai trò bộ đội tác chiến duy trì sự thống trị hữu hiệu của triều đình, trong đó nổi tiếng nhất là Thích gia quân do Thích Kế Quang chiêu mộ chủ yếu từ người Chiết Giang, bộ đội tư nhân Liêu Đông thiết kỵ của Lý Như Tùng, và Quan Ninh thiết kỵ do [[Viên Sùng Hoán]] chiêu mộ chủ yếu từ người Liêu Đông<ref>《細說明朝》〈二六、五军都督府、兵部〉. 黎東方. 第61頁-第62頁</ref>。
Hàng 258 ⟶ 322:
Trong những năm Vạn Lịch, người Nhật Bản cũng đi trước Trung Quốc về kỹ thuật hỏa khí, ưu thế của hỏa khí Nhật Bản từng có lúc khiến họ chiếm thế thượng phong trong chiến tranh tại Triều Tiên<ref>趙士楨《神器譜》,卷一:「……調集人馬十有餘萬,附以朝鮮土著,何止三十餘萬。倭奴止以飛巒島鳥銃手三千憑為前驅,懸軍深入,不勞餘力,抗我兩國。我以兩國全力,不能製倭死命。焱馳電擊而前,從容振旅而退,不但諸酋盡全首領,至於倭眾亦覺無多損失。」</ref><ref>張萱《西園聞見錄》卷五六:「倭制火銃,其藥極細,以火酒漬之,故其發速,又人善使,故發必中。中國有長技,而製之不精,與無技同。」</ref>. Nhà quân sự [[Thích Kế Quang]] cũng phê bình nhiều loại hỏa khí đương thời thực tế không có tính thực dụng, cho nên cần ngừng sản xuất để tránh lãng phí<ref>戚繼光《練兵實紀》,卷五-軍器製解:「……以上之外,有火磚,一窩鋒,地雷,千里炮,神槍等,百十名色,皆不切於守戰,故不備,今皆一切禁之。以節靡費,惟有子母炮,尚屬可用,未當終棄,亦一奇品也。」</ref>.
 
Có học giả chỉ ra rằng, Trung Quốc sử dụng binh khí nóng trước phương Tây hai2 thế kỷ, song đến thế kỷ 15-16XV – XVI, do hòa bình lâu dài nên việc cải tiến kỹ thuật đình trệ, bị người Bồ Đào Nha vượt qua, về sau quân Thanh lợi dụng kỹ thuật và kinh nghiệm của triều Minh và phương Tây, nhiều lần cải thiện và chế tạo hỏa khí có uy lực hơn so với triều Minh, đến thời [[loạn Tam Phiên]], kỹ thuật binh khí của Trung Quốc quay lại tiếp cận trình độ các quốc gia Tây Âu<ref>梁柏力《被誤解的中國:看明清時代和今天》,中信出版社,第111-114頁</ref>.
 
===Thời kỳ sau===
[[Tập tin:Arms of Ming army3.jpg|280px|thumb|Lựu đạn ném tay của quân Minh]]
 
Những năm cuối nhà Minh, quan lại tham nhũng và bất tài đã làm suy yếu hệ thống quân sự “Vệ sở” của nhà Minh. Vào đầu thế kỉ 17XVII, quân đội nhà Minh đã trở nên thiếu đào tạo và kỉ luật, sức mạnh của họ ngày một giảm sút. Các sĩ quan tiếp tục ghi tên những người đã chết hoặc đã rời quân ngũ vào trong danh sách để tham nhũng tiền lương. Trong những năm 1560, chỉ có 3 vạn lính ở Tuyên Phủ chống lại cuộc xâm lược của Mông Cổ, trong khi con số trên giấy là 12 vạn. [[Martin de Rada]] đã đưa ra một danh sách quân đội nhà Minh vào cuối thế kỉ 16XVI, trên giấy tờ họ có tổng cộng 4.178.500 bộ binh và 780.000 con ngựa, rõ ràng là đã phóng đại quá xa thực tế.
 
Thời [[Gia Tĩnh]], có vị quan đã miêu tả vệ sở như là ''“nguồn gốc của nhiều rắc rối. Họ nổi loạn và sẵn sàng tạo phản bất cứ khi nào triều đình chậm trả tiền cho họ… bất kì khi nào có chiến tranh, do lo sợ quân đội bị tổn thất, lính đánh thuê và dân binh được sử dụng để chống lại những bọn giặc cướp. Nói cách khác, dân thường được sử dụng để bảo vệ những người lính"''. Những người lính đánh thuê được tuyển mộ chủ yếu từ dân lang thang, trộm cướp. Do được tuyển mộ từ những vùng khác nhau, những đạo quân mang tính địa phương rất lớn. Những người đến từ Hồ Nam dễ kiểm soát nhưng lại hèn nhát. Trái lại, Mao Hồ Lô binh (毛葫蘆兵), những cựu thợ mỏ thì dũng cảm nhưng lại vô kỷ luật. Những người lính Tứ Xuyên vốn là những kẻ cướp, dễ bị thu hút bởi những đồ đạc bị kẻ thù bỏ lại. Sự đa dạng của các đơn vị khiến cho việc kiểm soát của trung ương rất khó khăn. Năm 1620, một báo cáo về quân đội tại [[Bắc Kinh]] mô tả: ''“Không thể dùng chúng để bảo vể kinh đô nếu chiến tranh nổ ra. Người ta nói triều đình không dám cải tổ chúng vì sợ chúng sẽ làm loạn. Họ cũng không dám đào tạo vì điều này cũng sẽ dẫn đến thảm họa tương tự"''.