Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Minh Thành Tổ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 48:
}}
 
'''Minh Thành Tổ''' ([[chữ Hán]]: 明成祖, [[2 tháng 5]], [[1360]] – [[12 tháng 8]], [[1424]]), ban đầu gọi là '''Minh Thái Tông''' (明太宗), là vị [[hoàng đế]] thứ ba của [[Nhà Minh]], tại vị từ năm [[1402]] đến năm [[1424]], tổng cộng 22 năm. Ông chỉ dùng một niên hiệu '''Vĩnh Lạc''' (永樂), nên sử gia còn gọi ông là '''Vĩnh Lạc Đế''' (永樂) hay '''Vĩnh Lạc đại đế''' (永樂大帝). Ông được coi là vị [[hoàng đế]] kiệt xuất nhất của Triều đại Nhà Minh, và là một trong các Hoàng đế kiệt xuất nhất trong [[lịch sử của Trung Quốc]]. Thời kỳ của ông về sau được ca ngợi gọi là '''Vĩnh Lạc thịnh thế''' (永樂盛世), khiến Đại Minh phát triển đỉnh cao về quyền lực.
 
Khi còn là hoàng tử, ông được phong làm '''Yên vương''' (燕王), đóng đô ở Bắc Bình (nay là [[Bắc Kinh]]). Sau một loạt chiến dịch thành công chống quân [[Mông Cổ]], ông bắt đầu củng cố quyền lực của mình ở phía bắc và tiêu trừ các đối thủ, tiêu biểu như đại tướng [[Lam Ngọc]]. Ban đầu, ông chấp nhận sự chỉ định của [[Minh Thái Tổ]] Chu Nguyên Chương về người kế vị là đứa cháu trai [[Minh Huệ Đế]] Chu Doãn Văn. Tuy nhiên, việc Hoàng đế mới bắt đầu giáng chức và tiêu diệt những ông chú quyền lực đã buộc Yên vương hành động. Ông lật đổ cháu trai Huệ Đế trong một cuộc nội chiến, vốn bất lợi cho ông vào thời gian đầu, đem quân từ Bắc Bình đánh xuống thủ đô Nam Kinh để giành ngai vàng vào năm [[1402]].
Dòng 82:
 
=== Triều đình bắc phạt ===
[[File:Ming-Emperor3.jpg|thumb|left|200px|Minh Thành Tổ quan sát các hoạn quan triều đình đang chơi [[cuju]], một trò chơi cổ xưa của Trung Quốc tương tự như [[bóng đá]].]]
Vì các tướng lĩnh biết cầm quân đã bị Minh Thái Tổ giết sạch, việc chọn chủ tướng là một mối lo với triều đình.<ref>Theo [[Minh sử]], vào thời Hồng Vũ có hơn 60 người được Minh Thái Tổ phong tước. Trong đó 35 người chết già, 26 người bị Thái Tổ giết. Những người còn sót lại là Cảnh Tinh Văn, Quách Anh và Vu Nguyên.</ref> Không có chọn lựa khác, triều đình cử lão tướng [[Cảnh Tinh Văn]] lúc đó đã 65 tuổi làm chủ soái và dẫn theo 13 vạn đại quân lên phía bắc. Một tướng dưới quyền Cảnh Tinh Văn đầu hàng Chu Đệ và thông báo cho Chu Đệ vị trí của Cảnh Tinh Văn. Chu Đệ cho viên tướng đó quay lại và nói cho Cảnh Tinh Văn biết rằng quân Yên đang đến và nên chuẩn bị giao tranh. Ngày 25 tháng 8, Chu Đệ bất ngờ tập kích quân triều đình. Bản thân Chu Đệ đích thân chỉ huy tấn công vào bên cánh của quân Minh và đánh bại Cảnh Tinh Văn. Hơn 3,000 người hàng Chu Đệ, số còn lại chạy về [[Chân Định]]. Chu Đệ dẫn quân đánh Chân Định nhưng không hạ được. Ngày 29 tháng 8, quân Yên rút về Bắc Bình.
 
Hàng 127 ⟶ 128:
Lúc bấy giờ, có người liền tố giác với Chu Đệ: chỉ có kẻ đã trà trộn vào Phật môn mới có thể trốn tránh được quan quân triều đình! Hơn nữa, khi phất cờ khởi nghĩa, [[Đường Trại Nhi]] từng tự xưng là "Phật mẫu", khiến Chu Đệ càng tin vị nữ hiệp này có liên quan tới cửa Phật.
 
Năm Vĩnh Lạc thứ 18 (1420), Minh Thành Tổ Chu Đệ đột nhiên hạ lệnh bắt tất cả các ni cô và nữ đạo sĩ ở [[Sơn Đông]], Bắc Kinh về kinh sư để thấm vấn, xác minh thân phận. Mặc dù mệnh lệnh được ban hành trên danh nghĩa "thẩm vấn", nhưng triều đình nhiều lần lạm dụng nhục hình, thậm chí còn bắt tay với tầng lớp [[Hòa thượng|hòa thượng]] để đẩy những phụ nữ xuất gia vào cảnh "sống không bằng chết".
 
Tháng 7 cùng năm, Minh Thành Tổ phong cho Đoàn Minh làm Tả tham chính Sơn Đông, tiếp tục truy tìm tung tích của Đường Trại Nhi. Để lập công với Thành Tổ, Đoàn Minh mở rộng phạm vi điều tra ra cả nước, làm liên lụy tới mấy vạn phụ nữ đã xuất gia, tu hành. Sự kiện này đã từng được ghi lại trong "Minh sử": ''"Tháng hai năm Vĩnh Lạc thứ 18, Đường Trại Nhi người Sơn Đông làm phản nhưng không bắt được, triều đình liền bắt giữ hàng vạn phụ nữ xuất gia."''
Hàng 135 ⟶ 136:
== Chính sách đối nội ==
Giống như cha mình Chu Nguyên Chương, Chu Đệ là một vị hoàng đế chăm chỉ và nghiêm khắc. Ông không đắm mình vào xa hoa chốn cung đình mà luôn thể hiện là người năng động và táo bạo.
[[File:Yongle Emperor.png|thumb|Tượng đồng của Hoàng đế Vĩnh Lạc. Đây là bản sao của bức tượng đá gốc đã bị phá hủy trong [[Cách mạng Văn hóa]].]]
 
=== Lại trị ===
Sau khi tàn sát các quan lại cũ của Minh Huệ Đế, chính quyền trung ương có những thiếu sót rất lớn về quan viên. Minh Thành Tổ vì vậy rất khao khát những người đọc sách có tài nguyện ý ra giúp mình. Ngay khi lên ngôi ông đã hạ lệnh mở ân khoa tuyển chọn sĩ tử vào triều làm quan để lấp các chỗ trống, tuy nhiên ông cũng rất khắt khe với việc gian lận. Thời Hồng Vũ, Minh Thái Tổ vì ít đọc sách nên không đặt nặng việc khoa cử, chỉ bổ nhiệm các thân tín, Thành Tổ cho cải cách khoa cử để hấp dẫn tầng lớp trí thức ra sức làm quan giúp mình. Ông đặt rất nhiều tâm huyết vào việc tuyển chọn nhân tài, thậm chí ông còn có những nguyên tắc riêng khi dùng người. Mặc dù là người độc đoán, Vĩnh Lạc cũng chứng tỏ mình là người sáng suốt và khôn ngoan khi biết tiếp thu có chọn lọc ý kiến của các cố vấn.
Hàng 169 ⟶ 170:
 
== Chính sách đối ngoại ==
[[Tập tin:Tribute Giraffe with Attendant.jpg|nhỏ|Một con [[hươu cao cổ]] châu Phi được Ấnquốc Độvương [[Bengal]] tặng cho Minh Thành Tổ. Theo một số thuyết thì [[kỳ lân]] được cách điệu theo con hươu cao cổ này]]
 
=== Mông Cổ ===
Mông Cổ tuy đã bị Minh Thái Tổ đuổi ra khỏi Trung Quốc từ năm [[1368]] nhưng vẫn là một kình địch đáng gờm của Nhànhà Minh. Quân Mông Cổ du mục vẫn còn gây ra một số bất ổn cho Nhà Minh. Vĩnh Lạc đã chuẩn bị để loại trừ mối đe dọa này. Ông sửa chữa hệ thống phòng thủ phía Bắc và xây dựng đội quân liên minh ở vùng đệm với Mông Cổ. Chiến lược của ông là để buộc người Mông Cổ vào phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc và tiến hành tiến đánh định kì vào Mông Cổ để làm tê liệt sức mạnh của họ. Ông thậm chí còn thành công trong việc buộc Mông Cổ trở thành một chư hầu Nhà Minh, và tiến hành cô lập người Mông Cổ. Thông qua chiến đấu, Minh Thành Tổ đã đánh giá cao tầm quan trọng của kỵ binh trong chiến trận và đã dành nhiều nguồn lực để phát triển nó. Minh Thành Tổ dành cả đời để đánh Mông Cổ, có cả thắng thua, tuy nhiên qua các cuộc chinh phạt này biên giới Nhà Minh được mở rộng và trong lần chinh phạt thứ 2 đã giúp cho Đại Minh có được hòa bình ở phía bắc trong bảy năm. Ông thực hiện 5 cuộc viễn chinh vào [[sa mạc Gobi]] và [[Siberia]] và nghiền nát những tàn tích còn sót của Triều đại Nhà Nguyên, sau khi chúng đã bỏ chạy xa về phía bắc do bị đánh bại bởi Chu Nguyên Chương, diễn ra từ năm 1410 đến năm 1424.
 
==== Lần thứ nhất ====
Hàng 205 ⟶ 206:
=== Đại Ngu - Đại Việt ===
{{Chính|Chiến tranh Minh-Đại Ngu|Khởi nghĩa Lam Sơn}}
[[File:Chine Ming - provinces Yongle-es.svg|thumb|[[Giao Chỉ]] (miền Bắc [[Việt Nam]]) dưới sự chiếm đóng của nhà Minh]]
 
[[Tập tin:Map of Ming Chinese empire 1415.jpg|thumb|Triều Minh Trung Quốc dưới Triều đại Vĩnh Lạc (1424)]]
[[Đại Việt]], với tên gọi mới [[Đại Ngu]] từ năm [[1400]], là một vấn đề hóc búa trong suốt Triều đại của Minh Thành Tổ. Năm 1406, Minh Thành Tổ chính thức đáp lại các thỉnh cầu từ [[Trần Thiêm Bình]] - người xưng là dòng dõi [[Nhà Trần]] đã bị [[Nhà Hồ]] lật đổ năm 1400. Ông sai tướng Hoàng Trung đem 10 vạn quân hộ tống [[Trần Thiêm Bình]] về nước. Quân Đại Ngu chặn ở biên giới nhưng bị quân Minh đánh tan; không lâu sau, một cánh quân Đại Ngu khác đánh úp quân Minh. Hoàng Trung phải nhượng bộ xin giao nộp Trần Thiêm Bình cho Nhànhà Hồ bắt giết để được mở đường rút quân về nước.
 
Để đáp lại sự sỉ nhục này, Minh Thành Tổ đã sai [[Trương Phụ]], [[Mộc Thạnh]] đem 21 vạn quân (nói phao lên thành 80 vạn) [[chiến tranh Minh-Đại Ngu|xâm lược Đại Ngu]]. Quân Minh liên tiếp thắng trận, bắt được vua [[Hồ Hán Thương]], và thượng hoàng [[Hồ Quý Ly]]. [[Nhà Hồ]] hoàn toàn sụp đổ vào năm 1407 và nhà Minh chính thức giành quyền đô hộ nước Việt, mở ra thời kỳ [[Bắc thuộc lần 4]]. Trung Quốc đã bắt đầu âm mưu đồng hóa một cách lâu dài. Vĩnh Lạc cho người đốt hết những sách vở, phá hủy những bia đá có khắc văn tự của người Việt, bắt những thợ thủ công có tay nghề cao người Việt thiến đi rồi đưa về Trung Quốc để phục dịch, lại đàn áp, tăng sưu thuế bắt người Việt phải phục dịch quân Minh. Nhưng những nỗ lực đó vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ của người Việt. Nhiều cuộc nổi dậy nổ ra chống lại các bộ máy xâmcai lượctrị Nhàcủa nhà Minh. Minh Thành Tổ đã điều các tướng [[Mộc Thạnh]], [[Trương Phụ]] sang dẹp các cuộc cuộc khởi nghĩa mà lớn nhất ban đầu là phong trào của các quý tộc Nhànhà Trần cũ là [[Trần Ngỗi]] và [[Trần Quý Khoáng]]. Sau khi họ Trần thất bại, vào đầu năm 1418 một cuộc nổi dậy lớn do [[Lê Lợi]] khởi xướng. Do thời gian Minh Thành Tổ qua đời đúng vào năm 1424, các lực lượng người Việt dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi đã chiếm gần như toàn bộ lại vương quốc. Năm 1427, [[Minh Tuyên Tông]] đã từ bỏ những nỗ lực bắt đầu bởi ông nội của ông và chính thức thừa nhận nền độc lập của Việt Nam với điều kiện nước Đại Việt phải chấp nhận tình trạng chư hầu và phải cống nạp người vàng tượng trưng cho tướng [[Liễu Thăng]] bị giết ở ải [[Chi Lăng]] mỗi lần đi sứ. Tuy nhiên, vai trò và thanh thế của Nhànhà Minh trong khu vực cũng từ đó mà đi xuống, bởi sự lớn mạnh của nước Việt mới ở phương Nam đã cắt đứt ảnh hưởng của Nhànhà Minh xuống vùng [[Đông Nam Á]].
 
=== Timurid ===
Hàng 238 ⟶ 239:
 
=== Hậu cung ===
[[File:仁孝文皇后徐氏(明太宗(成祖)).jpg|thumb|250px|Từ hoàng hậu (Minh Thành Tổ)|Từ hoàng hậu]]
 
==== Từ Hoàng hậu ====
Trong cuộc đời Minh Thành Tổ Chu Đệ có bốn người con gái mà ông vô cùng sủng ái. Họ đều là những người mỹ nhân tài đức vẹn toàn, nhưng có lẽ người có công lớn nhất khiến một đại hoàng đế xuất chúng như Chu Đệ cả đời kính trọng, yêu thương và thương nhớ chính là Từ Nghĩa Hoa, [[Từ hoàng hậu (Minh Thành Tổ)|Từ hoàng hậu]]. [[Minh Thái Tổ]] Chu Nguyên Chương có giao tình tốt với [[Từ Đạt]], muốn hậu đãi nhà họ Từ, bèn gả Từ thị cho Chu Đệ. Chu Đệ kính trọng và yêu thương Từ vương phi không chỉ bởi tài hoa, đức hạnh, mà nàng chính là người có công lớn giúp Chu Đệ xây dựng thành công đế nghiệp. Nhưng bất hạnh Từ Hoàng hậu mắc bệnh mất sớm để lại sự đau đớn tiếc thương vô hạn cho hoàng đế Chu Đệ.
Hàng 247 ⟶ 248:
 
Từ Diệu Cẩm vốn vô cùng căm ghét và coi thường con người độc ác tàn bạo của Chu Đệ nên nàng đã từ chối những người được Chu Đệ phái đến. Việc đến đó tưởng là xong. Không ngờ vài hôm sau đích thân Chu Đệ đến gặp nàng. Chu Đệ nhìn kỹ nàng, thấy nàng tuy ăn mặc giản dị, trang điểm sơ sài nhưng nét đẹp vẫn tỏa sáng ngời ngời. Ngay từ giây phút đó, Chu Đệ biết rằng mình đã yêu Từ Diệu Cẩm, muốn ở bên cạnh nàng, muốn lập nàng làm hoàng hậu không phải vì nàng là em gái của Từ hoàng hậu nữa. Nhưng Diệu Cẩm đã không hề có chút gì để ý với Chu Đệ ngay từ đầu và nàng không đáp nhận tình cảm của vua. Nàng chỉ bày tỏ rằng từ nhỏ tuy sống trong cảnh giàu sang phú quý, nhưng nàng không ham danh lợi, không cầu vinh hoa, quyết chí tu hành, trọn đời không xuất giá. Trước thái độ cương quyết của nàng, Chu Đệ đành phải chấp nhận và thề không lập ai làm hoàng hậu nữa để báo đáp Diệu Cẩm. Sau này, khi nàng qua đời, nàng được Chu Đệ an táng theo nghi lễ hoàng hậu.
 
==== Quyền phi ====
Sau có người con gái [[Triều Tiên]] dâng lên cho vua, xinh đẹp lại thông minh, vua yêu lắm, lập làm Quyền phi. Quyền phi là con gái của Quyền Vĩnh Quân, làm chức Công tào Điển thư của nước Triều Tiên. Xuất thân trong gia đình danh gia vọng tộc, là bậc ngàn vàng của gia đình thư hương, tự nhiên Quyền phi là bậc cao nhã, tài năng xuất chúng. Lại thêm dung mạo của cô rất xinh đẹp, dáng điệu thướt tha, là đại mỹ nhân nổi tiếng gần xa thời đó.
 
Bắt đầu từ triều Nguyên, người Triều Tiên đã bị Trung Quốc ép buộc tiến cống mỹ nữ. Đến đầu đời Minh vẫn như thế. Khi nhà Minh lập nước, trong hậu cung của Thái tổ Chu Nguyên Chương cũng có không ít phi tần là người Triều Tiên. Đến Minh Thành Tổ Chu Đệ cũng được sinh ra bởi một người phi tần đến từ Triều Tiên. Có lẽ ông ta mang trong mình một nửa huyết thống Triều Tiên, cũng có lẽ hy vọng tìm thấy hình ảnh của người mẹ đã mất trong ký ức thời niên thiếu của mình ở những mỹ nhân đến từ Triều Tiên. Sau khi Thành Tổ đăng cơ, không ngừng ra chiếu chỉ phái người đến Triều Tiên chọn mỹ nữ đưa vào cung. Quyền phi cũng đến cung đình Trung Quốc vào thời gian này.