Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kowale Pańskie”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Tạo với bản dịch của trang “Kowale Pańskie
(Không có sự khác biệt)

Phiên bản lúc 08:36, ngày 12 tháng 7 năm 2019

Kowale Pańskie ( phát âm [kɔˈvalɛ ˈpaj̃skʲɛ]) là một ngôi làng ở khu hành chính của Gmina Kawęczyn, Turecki, Wielkopolskie, ở phía tây trung bộ Ba Lan. [1] Nó nằm cách khoảng 4 kilômét (2 mi) về phía bắc Kawęczyn, 10 km (6 mi)về phía nam Turek và 122 km (76 mi) về phía đông nam của thủ phủ Poznań .

Kowale Pańskie
—  Làng  —
Sông Kiełbaska chảy qua phía bắc của Kowale Pańskie
Kowale Pańskie trên bản đồ Ba Lan
Kowale Pańskie
Kowale Pańskie
Quốc giaBa Lan Poland
VoivodeshipGreater Poland
CountyTurek
GminaKawęczyn
Dân số 190
Múi giờUTC+1, UTC+2 sửa dữ liệu
Mã bưu chính62-704 sửa dữ liệu

Ngôi làng có dân số là 190 người.

Lịch sử

Làng Kowale đã tồn tại từ thế kỷ 13. Được Đức Tổng Giám mục Jakub winka mua vào khoảng năm 1280, nó vẫn là tài sản của Tổng giáo phận Gniezno cho đến thế kỷ 18. Cái tên Kowale xuất hiện vào thế kỷ 17, liên quan đến một cộng đồng thợ rèn (kowaleBa Lan) phục vụ thị trường địa phương. Nhà thờ được thành lập bởi Antoni Czarnecki và được xây dựng vào năm 1847. Giáo xứ của nhà thờ bao gồm 12 ngôi làng. Vào giữa thế kỷ 19, trong thời kỳ phân vùng của Ba Lan, dân số của Kowale Pańskie (và Wola Kowalska liền kề) chỉ có 323 người, một nửa trong số họ sống và làm việc xung quanh trang viên lịch sử địa phương (được xây dựng vào năm 1750), thuộc sở hữu của nhà công nghiệp Robert Schultz - người sở hữu một nhà máy chạy bằng hơi nước. Kowale Pańskie bao gồm 30 trang trại. Người dân chủ yếu là người Ba Lan, với một số gia đình người Đức và thậm chí chỉ có ít gia đình người Do Thái. [2] Sau khi Ba Lan trở lại độc lập, Kowale trở thành khu vực hành chính quận (gmina) vào năm 1928, bao gồm 59 khu định cư. Trạm cứu hỏa tình nguyện, một khu trường học (1933), [3] và một ngân hàng cộng đồng (Gminna Kasa Pożyczkowo-Oszczędnościowa) được xây dựng. [2]

Chiến tranh thế giới thứ hai và Holocaust

Trong cuộc xâm lược Ba Lan của Đức khi bắt đầu Thế chiến II, Kowale trở thành một phần của Turek Kreis trên lãnh thổ Reichsgau Wartheland, bị sáp nhập trực tiếp vào Đức Quốc xã. Quận Kowale được chọn làm địa điểm của một khu tập trung Do Thái quá cảnh cho người Do Thái Ba Lan từ toàn bộ khu vực trải dài 16 khu định cư bao gồm Turek. [4] Khu tập trung Do Thái - tập trung quanh Czachulec - được biết đến trong tiếng Đức là Heidemühle liên quan đến một cối xay gió cũ ở đó; tất cả các gia đình Ba Lan đã bị trục xuất khỏi khu vực với những người Ba Lan trẻ hơn được đưa đến Đức để lao động nô lệ. Đức quốc xã đã ra lệnh thành lập một hội đồng Judenrat duy nhất cho tất cả các cộng đồng Do Thái. Khu tập trung Do Thái giam giữ 3.700 người Do Thái; lên đến 18 gia đình trên mỗi trang trại. [5]

Vào tháng 10 năm 1941, SS-Sturmbannführer Herbert Lange đã chọn Chełmno gần đó làm địa điểm của trại hủy diệt đầu tiên. [6] Các xe hơi ngạt được sản xuất tại Berlin, một vài chiếc đã được giao trong tháng Mười một. [7] Vào ngày 8 tháng 11 năm 1941, tất cả những người Do Thái từ khu tập trung Kowale Pańskie đã bị dồn vào làng Bielawki để lọc. Khoảng 1.100 người đã bị tuyên bố là "không có khả năng làm việc" và vào ngày 13 đến 14 tháng 11 đã được chuyển đến trại tử thần ở Chełmno. Những người đàn ông trẻ và khỏe hơn ở Kowale đã bị trục xuất đến lao động cưỡng bức gần Poznań vào đầu năm 1942, sau đó là một nhóm phụ nữ Do Thái. Cuộc thanh trừng cuối cùng của khu tập trung Do Thái diễn ra vào ngày 20 tháng 7 năm 1942, khi những người Do Thái còn lại được gửi đến Chełmno, nhưng cũng bị sát hại bên ngoài làng, cùng với các bệnh nhân bệnh viện Do Thái và 12 cảnh sát Do Thái. dân của Babiak, Dąbie, Dęby Szlacheckie, Grodziec, Izbica Kujawska, Kłodawa, Koło, Nowiny Brdowskie và Sompolno đã bị trục xuất đến Chełmno trước tháng 3 năm 1943. [8]

Xem thêm

Tài liệu tham khảo

  1. ^ “Central Statistical Office (GUS) - TERYT (National Register of Territorial Land Apportionment Journal)” (bằng tiếng Polish). 1 tháng 6 năm 2008.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  2. ^ a b Andrzej Tyczyno (31 tháng 1 năm 2010). “Kowale Pańskie”. Settlement history. Stowarzyszenie na Rzecz Rozwoju Powiatu Tureckiego.
  3. ^ Zespół Szkół w Kowalach Pańskich. “O szkole” [School History]. Szkoła Podstawowa i Gimnazjum w Kowalach Pańskich.
  4. ^ Yizkor Book Project (2008). “Kowale Pańskie, District of Turek”. JewishGen. |url= trống hay bị thiếu (trợ giúp) Also in: Pinkas Hakehilot (1976). “Kowale Pańskie”. Communities of Lodz and Its Region. Yad Vashem, Jerusalem: Encyclopedia of Jewish Communities: Poland. Vol I. |url= trống hay bị thiếu (trợ giúp)
  5. ^ Zbigniew Nabzdyk ; và đồng nghiệp (18 tháng 7 năm 2012). “Getto Czachulec”. Konińska Gazeta Internetowa. “Và đồng nghiệp” được ghi trong: |author= (trợ giúp)
  6. ^ Christopher R. Browning (2011). Remembering Survival: Inside a Nazi Slave-Labor Camp. b. W. W. Norton & Company. tr. 54, 65. ISBN 0393338878. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2015. Also in: Holocaust Research Project.org (2007). “Lange, Herbert; SS-Hauptsturmführer”. Chelmno Death Camp Dramatis Personae. Holocaust Education & Archive Research Team.
  7. ^ Mathias Beer (translated from the German) (2015). “The Development of the Gas-Van in the Murdering of the Jews”. The Final Solution. Jewish Virtual Library. "Die Entwicklung der Gaswagen beim Mord an den Juden," Miszelle. Vierteljahrshefte fuer Zeitgeschichte, 37 (3), pp. 403-417. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2015.
  8. ^ Holocaust Encyclopedia (2016). “Deportations to Chelmno”. United States Holocaust Memorial Museum. |url= trống hay bị thiếu (trợ giúp) Also in: Martin Gilbert (2009). The Routledge Atlas of the Holocaust. Routledge. tr. 70. ISBN 0415484812.


51°56′B 18°32′Đ / 51,933°B 18,533°Đ / 51.933; 18.533