Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến dịch New Guinea”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 106:
===Chiến dịch trên không===
Vì [[Port Moresby]] là cảng duy nhất hỗ trợ các hoạt động ở Papua, nên vị trí quốc phòng của nó rất quan trọng đối với chiến dịch. Lực lượng phòng không bao gồm máy bay chiến đấu [[Bell P-39 Airacobra|P-39]] và [[Curtiss P-40 Warhawk|P-40]]. Radar của [[Không quân hoàng gia Úc|RAAF]] không thể đưa ra cảnh báo đầy đủ về các cuộc tấn công của Nhật Bản, vì vậy điều này phụ thuộc vào những người lính theo dõi bờ biển và trên đồi cho đến khi một đơn vị radar của Mỹ với trang thiết bị tốt hơn đến vào tháng 9.<ref name= "Craven477">Craven & Cate 1948, pp. 476–477.</ref> Chi phí cho máy bay chiến đấu của quân [[Đồng minh]] là khá cao. Đến tháng 6, 20-25 chiếc [[Bell P-39 Airacobra|P-39]] đã bị phá hủy trong những cuộc không chiến, trong khi ba chiếc khác bị phá hủy trên mặt đất và 8 chiếc đã bị phá hủy do những tai nạn khi hạ cánh.
Các xạ thủ phòng không Úc và Hoa Kỳ đóng vai trò vô cùng quan trọng. Các xạ thủ đã phải chiến đấu rất nhiều, [[Port Moresby]] phải chịu cuộc không kích thứ 78 vào ngày 17 tháng 8 năm 1942.<ref>Watson 1944, p. 31.</ref> Sự cải thiện về độ chính xác và số lượng của các xạ thủ này khiến các máy bay tấn công của quân Nhật phải ngày càng bay cao hơn, làm giảm sự chính xác của các đợt tấn công, và sau đó vào tháng 8, quân Nhật quyết định phải tấn công vào ban đêm.<ref name="Craven477"/>
 
===Quân Đồng minh chiếm giữ vịnh Milne===