Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Vách đá Bandiagara”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎top: sửa chính tả 3, replaced: Châu Phi → châu Phi using AWB
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{Infobox Worldprotected Heritagearea Site
| WHS name = Vách đá Bandiagara
| iucn_category = III
| Image = [[Tập tin:Landscape Dogon Mali.png|250px]]
| photo = Les Falaises de Bandiagara.jpg
| State Party = {{flag|Mali}}
| photo_caption = Vách đá Bandiagara từ Banimoto
| Type = Hỗn hợp
| location = [[Mopti (vùng)|Mopti]], Mali
| Criteria = v, vii
| ID nearest_city = 516
| embedded1 = {{Infobox UNESCO World Heritage Site
| Region = châu Phi
| Yearchild = 1989yes
| official_name = La Falaise de Bandiagara
| Extension =
| part_of = Vách đá Bandiagara (Vùng đất của Dogon)
| Session =
| Criteriacriteria = (v), (vii)
| Link = http://whc.unesco.org/en/list/516
| SessionID = 516
| coordinates = {{coord|14|20|N|3|25|W|format=dms|display=inline, title}}
| Typeyear = Hỗn hợp= 1989
| area = {{convert|326.950|ha|sqmi|abbr=on}}
| locmapin = Mali
| map_caption =
}}
| coordinates =
| area_km2 =
| established = 1985
| visitation_num =
| visitation_year =
| governing_body =
}}
 
'''Bandiagara''' trải dài từ Gani đến Koudianga, nằm ở khu vực Mopti, [[Mali]]. Đây là một cảnh quan nổi bật của vách đá và cao nguyên cát cùng với kiến trúc nhà ở của dân tộc sinh sống ở đây đã khiến Vách đá Bandiagara trở thành một trong những địa điểm ấn tượng nhất ở khu vực [[Tây Phi]].
 
'''Vách đá Bandiagara''' là một vách đá nằm tại vùng đất của Dogon, thuộc vùng [[Mopti (vùng)|Mopti]], [[Mali]]. Đây là một vách đá sa thạch cao đến 500 mét so với những đồng cát thấp hơn ở phía nam.
== Tự nhiên ==
 
Khu vực vách đá ngày nay vẫn là một nơi ở của người Dogon. Trước Dogon, đây là nơi trú ẩn của những người [[Tellem]] và Toloy. Nhiều cấu trúc có từ thời kỳ này vẫn còn tồn tại. Vách đá được [[UNESCO]] công nhận là [[Di sản thế giới]] từ năm 1989.
 
Bandiagara là vách đá sa thạch có chiều dài khoảng 150 km có hướng nam-đông bắc và kéo dài tới khối núi Grandamia. Kết thúc của khối núi là [[Núi Hombori]] cao 1.115 mét là đỉnh cao nhất Mali. Do có những đặc điểm khảo cổ, dân tộc học và địa chất, toàn bộ khu vực này là một trong những địa điểm hùng vĩ nhất ở [[Tây Phi]].
==Lịch sử==
Người Tellem sống trong hang đá, những người sau đó bị đẩy ra bởi sự xuất hiện của người Dogon, từng sống ở sườn dốc của vách đá. Di sản của người Tellem thể hiện rõ trong các hang đá với những hình khắc và tập tục chôn cất người chết trên cao, để tránh những trận lũ quét thường xuyên của khu vực.
 
Hàng chục ngôi làng nằm dọc theo vách đá, như là Kani Bonzon. Chính gần ngôi làng này, những người Dogon đã đến vào thế kỷ 14, và từ đó họ mở rộng trên khắp cao nguyên, vách đá và vùng đồng bằng của Seno-Gondo.
 
Theo truyền miệng địa phương, những người Dogon không bị các thế lực thực dân Pháp làm phiền do các đường hầm tự nhiên được dệt xuyên qua vách đá. Chỉ có những người Dogon mới biết về các đường hầm, và có thể sử dụng chúng để phục kích và đẩy lùi những kẻ xâm lược.
== Tự nhiên ==
Vách đá Bandiagara nằm ở vùng phía Nam sa mạc Sahara, một khu vực khô cằn với lượng mưa hàng năm chỉ khoảng 580 mm nhưng mang vẻ đẹp tự nhiên của một cao nguyên đá độc đáo ở Tây Phi, với sự đa dạng về địa mạo địa hình (cao nguyên, vách đá và đồng bằng) và sự hiện diện của các cảnh quan tự nhiên (hang động, hang đá, cồn cát) bị ảnh hưởng bởi xói mòn. Địa chất ở đây là đá sa thạch được hình thành từ [[kỷ Cambri]] và [[kỷ Ordovic]]. Ở một số cao nguyên trong khu vực còn có đá ong và đá quặng.
 
Hàng 22 ⟶ 45:
Đây còn là môi trường tự nhiên của các loài thực vật đặc hữu vách đá, khe đá và cao nguyên bao gồm các cây lấy thuốc và cây gỗ. Động vật thì gồm có: cáo, chó rừng, cá sấu, bồ câu đá...
 
== Văn hóa ==
Nơi đây còn được gọi với cái tên '''vùng đất của Dogons'Dogon'' là cảnh quan văn hóa rộng lớn lên đến 400.000 ha gồm 289 ngôi làng nằm trên 3 vùng tự nhiên ở đây là: cao nguyên đá [[cát kết|sa thạch]], vách núi và vùng đồng bằng.<ref>{{cite news|author=Baxter, Joan|title=Mali: What Price Tourism?|date=16 April 2001|work=[[BBC News]]|url=http://news.bbc.co.uk/2/hi/africa/1280076.stm}}</ref> Con người đã sinh sống ở nơi đây từ thời kỳ đồ đá cũ, họ sống hòa nhập với cảnh quan thiên nhiên, ở các hang núi trên các vách đá.<ref>{{cite news|author=Smith, Alex Duval|title=Mali Plunders its Desert Heritage to Feed Demand for 'Primitive' Art|date=17 March 2001|work=[[The Independent]]|url=https://www.independent.co.uk/news/world/africa/mali-plunders-its-desert-heritage-to-feed-demand-forprimitive-art-687697.html}}</ref>
 
Đến thế kỷ 15, nơi đây là một nơi trú ẩn quan trọng mang ý nghĩa phòng thủ. Công sự ở nơi đây bao gồm nhà ở, kho thóc, bàn thờ tổ tiên, thánh đường, nghĩa trang và ''Togu Na'' (nhà cộng đồng), trong đó nhiều nhất là nhà ở và các kho thóc. Nguyên liệu để xây dựng là tất cả những gì có sẵn trên cao nguyên đá này, đã phản ánh sự khéo léo và tín ngưỡng tâm linh, quan điểm về sự sống cái chết của họ.
Hàng 30 ⟶ 53:
 
Ngoài ra, khu vực này là một trong những trung tâm chính cho các nền văn hóa vùng Dogons, giàu truyền thống cổ xưa với các nghi lễ, văn hóa nghệ thuật và văn hóa dân gian lâu đời.
==Hình ảnh==
 
<gallery>
File:Tellem Dwelling Bandiagara Escarpment Mali.jpg|Những ngôi nhà còn sót lại của người Tellem cổ đại
Image:Bandiagara Escarpment Mali.jpg|Một góc của vách đá
File:Bandiagara escarpment 1.jpg|
File:Bandiagara escarpment 2.jpg|
</gallery>
==Tham khảo==
{{tham khảo}}