Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phân rã alpha”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
[[Hình:Alpha Decay.svg|thumb|left|Phân rã alpha]]
'''Phát hiên Hạt alpha:''' Hạt alpha đầu tiên được xác định như bức xạ có khả năng đâm xuyên kém nhất do các chất trong tự nhiên phát ra.
'''Phân rã alpha''' hay '''Phân rã <big>α</big>''' là một loại phân rã [[phóng xạ]] trong đó một [[hạt nhân nguyên tử]] phát ra một [[hạt alpha]] và qua đó biến đổi (hay "phân rã") hay làmbị giảm cả số hiệu nguyên tử lẫn số neutron đi 2 đơn vị, còn số khối lượng bị giảm mất 4 đơn vị. Ví dụ:
 
Năm 1903,Rutherford xác định tỉ số điện tích khối lượng bằng cách làm lệch hạt alpha phát ra từ radium trong điện trường và từ trường.Mặc dù gặp nhiều khó khăn trong các thí nghiệm đầu tiên,kết quả của Rutherford chỉ cao hơn 25% giá trị được chấp nhận hiện nay.
 
Năm 1909, Rutherford chỉ ra như đã dự đoán,hạt alpha là hạt nhân của nguyên tử Helium.Trong thí nghiệm của ông,hạt alpha xuyên qua thành và đi vào trong ống nghiệm.Sau vài ngày thu thập đủ số lượng hạt alpha,phương pháp phổ học nguyên tử cho thấy sự tồn tại của helium trong ống nghiệm.
 
[[Hình:Alpha Decay.svg|thumb|left|Phân rã alpha]]
'''Phân rã alpha''' là một loại phân rã [[phóng xạ]] trong đó một [[hạt nhân nguyên tử]] phát ra một [[hạt alpha]] và qua đó biến đổi (hay "phân rã") hay làm giảm cả số hiệu nguyên tử lẫn số neutron đi 2 đơn vị, còn số khối lượng bị giảm mất 4 đơn vị. Ví dụ:
{|
|-
Hàng 12 ⟶ 6:
|}
 
mà cũnghay có thể viết là:
{|
|-
Hàng 18 ⟶ 12:
|}
 
Hạt alpha gồm hai [[proton]] và hai [[neutron]] liên kết với nhau thành một hạt giống hệt hạt nhân nguyên tử [[heli]] <math> ^{4}_{2} \hbox{He} </math>.<ref name=beiser>{{cite book |title=Concepts of Modern Physics |url=http://phy240.ahepl.org/Concepts_of_Modern_Physics_by_Beiser.pdf |year=2003 |publisher=McGraw-Hill |isbn=0-07-244848-2 |chapter=Chapter 12: Nuclear Transformations |pages=432–434 |edition=6th |author1=Arthur Beiser}}</ref>
 
Tia alpha là chùm của các hạt <math> ^{4}_{2} \hbox{He} </math> bay ra với vận tốc khoảng 2*10<sup>7</sup> (m/s), đi được vài centimet trong không khí và vài micromet trong chất rắn.
 
== Lịch sử phát hiện ==
Các hạt alpha được [[Ernest Rutherford]] mô tả đầu tiên trong khảo sát về phóng xạ vào năm 1899 và đến năm 1907, và chúng được xác định là các ion He<sup>2+</sup>.
 
Đến năm 1928 [[George Gamow]] đã giải quyết lý thuyết phân rã alpha thông qua [[hiệu ứng đường hầm]]. Hạt alpha bị hạt nhân giữ lại trong một [[hố thế năng]]. Về mặt kinh điển, nó bị cấm trốn thoát, nhưng theo các nguyên lý [[cơ học lượng tử]] mới được phát hiện (sau đó), nó có xác suất "đường hầm" nhỏ (nhưng vẫn khác không) xuyên qua hàng rào và xuất hiện ở phía bên kia để thoát khỏi hạt nhân.
Tia alpha là chùm của các hạt He bay ra với vận tốc khoảng 2*10<sup>7</sup> (m/s),đi được vài centimet trong không khí và vài micromet trong chất rắn.
Gamow đã giải một mô hình thế năng cho hạt nhân và dẫn xuất, theo các nguyên lý đầu tiên, mối quan hệ giữa [[chu kỳ bán rã]] của phân rã và năng lượng phát xạ, điều đã được phát hiện theo thực nghiệm trước đây và được gọi là [[định luật Nuttall - Geiger]].<ref>{{cite web |url=http://www.phy.uct.ac.za/courses/phy300w/np/ch1/node38.html |title=Gamow theory of alpha decay |date=6 November 1996 |archiveurl=https://web.archive.org/web/20090224200050/http://www.phy.uct.ac.za/courses/phy300w/np/ch1/node38.html |archivedate=24 February 2009}}</ref>
 
==Tham khảo==