Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Khởi nghĩa Warszawa”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 34:
Ngày 2 tháng 8, [[Nguyên soái Liên Xô|Nguyên soái]] [[Konstantin Konstantinovich Rokossovsky|K. K. Rokossowski]] nhận được tin tức từ trinh sát báo cáo về cuộc nổi dậy ở Warszawa nhưng không nắm được các diễn biến cụ thể. Ông liên lạc với những người của [[Ủy ban giải phóng dân tộc Ba Lan]] (''{{lang-pl|Polski Komitet Wyzwolenia Narodowego}}'', '''PKWN'''), bộ chỉ huy [[Quân đội Nhân dân Ba Lan]] (''{{lang-pl|Ludowe Wojsko Polskie}}'', '''LWP''')và Mặt trận nhân dân yêu nước (''{{lang-pl|Krajowa Rada Narodowa}}'', '''KRN''') nhưng họ đều không biết gì về kế hoạch khởi nghĩa của "Armia Krajowa". Tuy nhiên, khi đông đảo nhân dân Warszawa đã đứng lên khởi nghĩa thì Bộ chỉ huy quân đội nhân dân Ba Lan hoạt động bí mật tại Warszawa đã chủ động bắt liên lạc với "Armia Krajowa" và tự đặt mình dưới quyền chỉ huy của "Armija Krajowa" nhưng đáp lại họ là sự cự tuyệt của tướng Bór-Komorowski. Bộ tư lệnh [[Phương diện quân Belorussia 1]] cũng cố sức để bắt liên lạc với những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nhưng các bức điện của nguyên soái Rokossowski gửi cho tướng Bór-Komorowski đều không được hồi đáp. Không những thế, tướng Bór-Komorowski còn nghiêm cấm cấp dưới tiếp xúc với các tổ chức cánh tả chống phát xít ở Ba Lan. Ông ta muốn một mình giành lấy thắng lợi của cuộc khởi nghĩa này.<ref name="Konstantin Konstantinovich Rokossovsky 1988"/>
 
[[Tập tin:Warsaw Uprising - Prudential Hit - frame 2a2.jpg|nhỏ|trái|256px|Quân đội Đức Quốc xã ném bom và bắn phá Warszawa, ngày 28 tháng 8 năm 1944]]
 
Trong khi tình hình mặt trận sông Wisla đang diễn biến hết sức phức tạp thì cuộc khởi nghĩa Warszawa đã nổ ra một cách bất ngờ với quân đội Liên Xô nhưng lại không hoàn toàn bất ngờ với quân đội Đức Quốc xã. Ngay từ cuối tháng 7, bộ máy mật thám [[Gestapo]] (Đức) đã nắm được nhiều thông tin về kế hoạch "Dông tố" (Kế hoạch khởi nghĩa của Armia Krajowa). Kế hoạch này không chỉ giới hạn ở thủ đô Warshawa Ba Lan mà còn dự kiến sẽ triển khai ở nhiều thành phố lớn của Ba Lan như Radom, Lyublin, Byalistok, Krakov và lan sang cả phần lãnh thổ Ukraina, Byelorussia, Litva tại Lvov, Brest, Vilnius, Siaulyai, Grodno, Kaunas. Do Gestapo đã cài được người của mình vào tổ chức của "Armia Krajowa" nên rất nhiều thành viên hoạt động bí mật của lực lượng Armia Krajowa đã bị bắt và một số trong đó đã khai báo với [[Gestapo]] về kế hoạch này. Người Đức chỉ bất ngờ về thời điểm nổ ra cuộc khởi nghĩa sớm hơn dự kiến và phạm vi của nó chỉ giới hạn tại Warszawa và các vùng phụ cận thay vì nổ ra đồng loạt ở nhiều thành phố Ba Lan <ref>[http://militera.lib.ru/h/ww2_german/18.html Aвторов: генерал-лейтенанта Дитмара, генерал-майора фон Бутлара, генерал-полковника фон Рендулича, генерал-фельдмаршала фон Рундштедта, генерал-лейтенанта Циммермана, генерал-майора фон Родена, генерала кавалерии Вестфаля, адмирала флота Маршалля, полковника Эгельгафа, полковника Зельмайра, подполковника Грефрата. Мировая война. 1939–1945. — М: ACT; СПб.: Полигон, 2000. (Tập thể tác giả: Trung tướng Dietmar, thiếu tướng Von Buttlar, Thượng tướng Von Rendulic, Chuẩn thống chế Von Roden, Trung tướng kỵ binh Westphal. Chiến tranh thế giới thứ II (1939-1945). Nhà xuất bản Pologol - AST. Moskva. 2000. Chương 8: Chiến tranh với Nga. Mục 50: Cuộc nổi dậy ở Warszawa)] ISBN 5-89173-076-6 (Polygon); ISBN 5-17-000339-0 (LLS - AST).</ref> [[Thống chế (Đức Quốc xã)|Thống chế]] [[Walter Model]] đứng trước hai sự lực chọn: hoặc là dẹp quân khởi nghĩa trước rồi phản công quân đội Liên Xô; hoặc phản công quân đội Liên Xô trước rồi "dẹp loạn" sau. Và Hitler đã cho ông ta một đáp số tối ưu: đó là [[Heinrich Himmler]], một người đang muốn "rửa nhục" cho SS và Gestapo sau vụ ám sát hụt Hitler xảy ra ngày 20 tháng 7 năm 1944.<ref>[http://militera.lib.ru/research/hohne_h01/16.html Хене, Хайнц. Черный орден СС. История охранных отрядов. — М.: Олма-Пресс, 2003. ''Bản gốc: Höhne, Heinz. The Order Of The Death's Head: The Story Of Hitler's SS. — New York: Coward-McCann, 1970.'' (Heinz Khöhne. Cấp bậc màu đen của SS - Lịch sử lực lượng cảnh vệ Quốc xã. Olma-Press. Moskva. 2003. Chương 16: Kết cục)]</ref> Theo đánh giá của Tổng hành dinh quân đội Đức Quốc xã tại Đông Phổ, các đòn tấn công của Tập đoàn quân xe tăng 2 (Liên Xô) nguy hiểm hơn và chính nó là nguyên nhân kích thích lực lượng Armia Krajowa nổi dậy để chiếm quyền kiểm soát Warszawa trước khi quân đội Liên Xô tiến công đến. Nếu chặn được đà tấn công của quân đội Liên Xô, quân Armia Krajowa sẽ bị cô lập và không thể chống lại lực lượng áp đảo của quân đội Đức Quốc xã. Các biện pháp đặc biệt đã được Thống chế [[Walter Model]] thực thi nhanh chóng. Trên mặt trận Praga - Volomin ở phía đông sông Wisla, 5 sư đoàn xe tăng và 2 sư đoàn bộ binh được triển khai. Kể từ sau [[Trận Vòng cung Kursk|trận Kursk]], đây là lần đầu tiên quân đội Đức Quốc xã bố trí một lực lượng xe tăng dày đặc trên một chính diện chỉ vỏn vẹn chưa đầy 30&nbsp;km từ Cherna Struga vòng qua Razmin và Trush xuống đến Palyenya, phía bắc Minsk-Mazowiecki với tâm điểm là Volomin.<ref>[http://militera.lib.ru/h/mellenthin/18.html Меллентин Ф. В. Танковые сражения 1939-1945 гг.: Боевое применение танков во второй мировой войне. – М.: ИЛ,Изд-во Иностр. лит-ры, 1957. Bản gốc tiếng Anh: F. W. von Mellenthin. Panzer battles 1939-1945: A study of the employment of armour in the second world war. Kimber. 1956. (Friedrich Wilhelm Mellenthin. Các trận chiến xe tăng 1939-1945. Kimber. London. 1956. Chương XVIII: Phòng ngự tại Ba Lan)]</ref> Trong giai đoạn đầu, việc trấn áp cuộc khởi nghĩa Warszawa được giao cho các sư đoàn cảnh vệ SS và lực lượng bảo vệ hậu phương mặt trận của quân đội Đức Quốc xã gồm Sư đoàn SS Reichsführer, Sư đoàn cảnh binh SS Warshawa, Cụm tác chiến SS Gruppenführer SS Von Bach-Selevskogo và Lữ đoàn Kaminsky. Đích thân [[Thống chế SS]] [[Heinrich Himmler]] được Adolf Hitler giao nhiệm vụ "bình định" khu vực Warszawa.<ref>[http://militera.lib.ru/memo/german/guderian/11.html Гудериан, Гейнц. Воспоминания солдата. — Смоленск.: Русич, 1999 ''Bản gốc: Guderian Heinz. Erinnerungen eines Soldaten. - Heidelberg, 1951.'' (Heinz Guderian. Hồi ức của một người lính. Nhà xuất bản Nước Nga. Smolensk. 1999. Chương 11. Ở Bộ Tổng tham mưu)]</ref>